June24

Các bài viết sưu tầm: June 2024
Ngày Quân Lực
Úc & Năng lượng hạt nhân?
Nghe nhạc ‘Sến’
Tàu cộng mua trùn
Nghị Viện Châu Âu
Tiếng Phú Lang Sa
Tô Đại tướng!
Kỷ niệm 80 năm D-Day
Từ chuyện Hứa Do

W3

ngay-quan-luc-19-6

Ngày Quân Lực 2024

Ảnh minh họa. © vietbao.

© Giao Chỉ San Jose

Nguồn: © Cựu HS Tống Phước Hiệp Vĩnh Long (19/06/2024)

60 năm sau, Giao Chỉ San Jose viết về Ngày Quân Lực 2024… Nửa thế kỷ đã trôi qua, cựu quân nhân VNCH vẫn còn nhớ mãi ngày quân lực. Khắp mọi nơi đều tổ chức họp mặt… bởi vì… “Hồn lính còn vương trên tóc bạc, anh nhớ sa trường, em có hay…”

Đọc tiếp

June24-6

Úc & Năng lượng hạt nhân?

Hạt nhân có phải là câu trả lời cho cuộc khủng hoảng khí hậu ở Úc – Is nuclear the answer to Australia’s climate crisis?

© Reuben Finighan. PhD candidate
at the LSE and Research Fellow at the Superpower Institute, The University of Melbourne (The conversation 03/11/23)

book-cover

Graph showing the cost per megawatt hour (MWh) for different electricity sources. © CSIRO

Trong cuộc đua đạt mức phát thải ròng bằng 0 của Úc, năng lượng hạt nhân đã trở lại thành tin tức. Lãnh đạo phe đối lập Peter Dutton lập luận rằng hạt nhân là “công nghệ khả thi và đã được chứng minh duy nhất” để cắt giảm khí thải. Bộ trưởng Năng lượng Chris Bowen khẳng định ông Dutton đang quảng bá “dạng năng lượng đắt tiền nhất the most expensive form of energy…”

Đọc tiếp…

Hạt nhân có phải là một lựa chọn thực dụng và khôn ngoan bị các nhà tư tưởng ngăn chặn? Hay ông Bowen nói đúng khi cho rằng việc thúc đẩy năng lượng hạt nhân cũng hợp lý như việc theo đuổi “những con kỳ lân “chasing unicorns?

Đối với những người không theo kịp sự phát triển của năng lượng hạt nhân, triển vọng của nó dường như phụ thuộc vào sự an toàn. Tuy nhiên, theo bất kỳ cách tính toán cứng rắn nào, rủi ro từ các nhà máy hạt nhân hiện đại đều thấp hơn nhiều so với rủi ro từ nhiên liệu hóa thạch.

Những thất bại sâu sắc trong thiết kế và năng lực vận hành đã gây ra thảm họa Chernobyl. Không ai chết ở Đảo Three Mile hoặc từ Fukushima. Trong khi đó, một nghiên cứu do Harvard dẫn đầu cho thấy hơn một trong sáu ca tử vong trên toàn cầu – khoảng 9 triệu ca mỗi năm – là do không khí bị ô nhiễm do đốt cháy hóa thạch.

Hai yếu tố trần tục hơn giúp giải thích tại sao tỷ trọng điện hạt nhân trong tổng sản lượng điện toàn cầu đã giảm một nửa kể từ những năm 1990. Nguyên do chính là thời gian và phí tổn.

The might of Wright’s law (Sức mạnh của định luật Wright)

Có bốn lập luận chống lại việc đầu tư vào năng lượng hạt nhân: Olkiluoto 3, Flamanville 3, Hinkley Point C và Vogtle. Đây là bốn nhà máy thế hệ mới nhất đã hoàn thành hoặc sắp hoàn thành lần lượt ở Phần Lan, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp.

Chi phí vượt mức tại các nhà máy gần đây này trung bình lên tới hơn 300% và sẽ còn tăng thêm nữa. Ví dụ, chi phí của Vogtle đã tăng từ 14 tỷ USD lên 34 tỷ USD (22-53 tỷ USD), Flamanville từ 3,3 tỷ euro lên 19 tỷ euro (5-31 tỷ USD) và Hinkley Point C từ 16 tỷ bảng Anh lên 19 tỷ euro. lên tới 70 tỷ bảng Anh (30-132 tỷ đô la Úc), bao gồm cả trợ cấp. Việc hoàn thành Vogtle đã bị trì hoãn bảy năm, Olkiluoto là 14 năm và Flamanville ít nhất là 12 năm.

Trường hợp thứ năm là Virgil C, cũng ở Mỹ, với số tiền 9 tỷ USD (14 tỷ USD) đã được chi trước khi chi phí vượt mức khiến dự án bị bỏ dở. Cả ba công ty xây dựng năm nhà máy này – Westinghouse, EDF và AREVA – đều phá sản hoặc bị quốc hữu hóa. Người tiêu dùng, công ty và người nộp thuế sẽ phải chịu chi phí trong nhiều thập kỷ.

Ngược lại, chi phí vượt mức trung bình cho năng lượng gió và năng lượng mặt trời là khoảng 0 , mức thấp nhất trong tất cả các cơ sở hạ tầng năng lượng.

Định luật Wright phát biểu rằng công nghệ càng được sản xuất nhiều thì giá thành của nó càng giảm. Năng lượng gió và đặc biệt là năng lượng mặt trời và pin lithium-ion đều có mức giảm chi phí đáng kinh ngạc trong hai thập kỷ qua.

Tuy nhiên, đối với năng lượng hạt nhân, định luật Wright đã bị đảo ngược. Càng lắp đặt nhiều công suất thì chi phí càng tăng. Tại sao? Nghiên cứu năm 2020 của MIT cho thấy những cải tiến về an toàn chiếm khoảng 30% mức tăng chi phí hạt nhân, nhưng phần lớn nhất là do những sai sót dai dẳng trong quản lý, thiết kế và chuỗi cung ứng.

Ở Úc, những chi phí và sự chậm trễ như vậy sẽ đảm bảo rằng chúng tôi sẽ không đạt được mục tiêu giảm phát thải. Chúng cũng có nghĩa là chi phí điện tăng vọt vì lưới điện chờ đợi công suất phát điện không đến. Đối với các công ty nhiên liệu hóa thạch và những người bạn chính trị của họ, đây là sức hấp dẫn thực sự của hạt nhân – thêm một hoặc hai thập kỷ nữa là bán với giá tăng cao.

Comparing the cost of nuclear and renewables (So sánh chi phí của hạt nhân và năng lượng tái tạo)

Tuy nhiên, những người ủng hộ hạt nhân nói với chúng ta rằng chúng ta không có lựa chọn nào khác: năng lượng gió và năng lượng mặt trời là những nguồn năng lượng không liên tục và chi phí để làm cho chúng trở nên đáng tin cậy là quá cao.

Nhưng hãy so sánh chi phí để cung cấp một megawatt giờ điện vào lưới điện từ hạt nhân với chi phí từ gió và mặt trời. Theo cả CSIRO và nhà phân tích thị trường năng lượng có uy tín Lazard Ltd, năng lượng hạt nhân có chi phí từ 220 đến 350 đô la Úc cho mỗi megawatt giờ được sản xuất.

Nếu không có trợ cấp hoặc tài trợ của nhà nước, bốn nhà máy nêu trên thường đạt hoặc vượt mức cao cấp trong phạm vi này. Ngược lại, Úc đã xây dựng các nhà máy năng lượng gió và năng lượng mặt trời với giá lần lượt dưới 45 USD và 35 USD mỗi megawatt giờ. Đó là một phần mười chi phí hạt nhân.

CSIRO đã mô hình hóa chi phí (modelled the cost) năng lượng tái tạo một cách chắc chắn – nghĩa là đáng tin cậy, chủ yếu thông qua pin và các công nghệ lưu trữ khác. Họ nhận thấy rằng các đường dây truyền tải và lưu trữ cần thiết sẽ chỉ tăng thêm từ 25 đến 34 USD cho mỗi megawatt giờ.

Nói tóm lại, một megawatt giờ đáng tin cậy từ năng lượng tái tạo có giá khoảng 1/5 so với một giờ từ nhà máy hạt nhân. Chúng ta có thể xây dựng một mạng lưới năng lượng tái tạo đủ lớn để đáp ứng nhu cầu gấp đôi mà vẫn phải trả ít hơn một nửa chi phí hạt nhân.

The future of nuclear: small modular reactors? (Tương lai của hạt nhân: SMR?)

Những người ủng hộ năng lượng hạt nhân đặt hy vọng vào các lò phản ứng modular nhỏ (SMR), thay thế các lò phản ứng quy mô gigawatt khổng lồ bằng các lò phản ứng nhỏ có khả năng sản xuất ở quy mô lớn. Điều này có thể cho phép hạt nhân cuối cùng khai thác được định luật Wright.

Tuy nhiên, SMR thương mại phải mất nhiều năm mới được triển khai. Công ty NuScale của Hoa Kỳ, dự kiến ​​xây dựng hai nhà máy ở Idaho vào năm 2030, vẫn chưa được động thổ và chi phí trên giấy tờ đã tăng lên khoảng 189 đô la Úc mỗi megawatt giờ.

Và SMR còn phải mất hàng thập kỷ nữa mới có thể triển khai rộng rãi. Nếu các ví dụ ban đầu hoạt động tốt, vào những năm 2030 sẽ có một đợt SMR sớm ở Mỹ và các nước châu Âu đã có sẵn kỹ năng hạt nhân và chuỗi cung ứng. Nếu điều đó suôn sẻ, chúng ta có thể thấy sự triển khai nghiêm túc từ những năm 2040 trở đi.

Trong những thập kỷ này, năng lượng mặt trời, gió và lưu trữ vẫn sẽ giảm dần theo đường cong chi phí theo định luật Wright. Năm ngoái, chính phủ Morrison đã đặt ra mục tiêu đưa năng lượng mặt trời xuống dưới 15 USD/MWh vào năm 2030 . SMR phải đạt được mức giảm chi phí không tưởng để cạnh tranh.

Cuối cùng, SMR có thể cần thiết và có tính cạnh tranh ở những quốc gia có nguồn năng lượng tái tạo kém. Nhưng Úc có nguồn tài nguyên năng lượng mặt trời và gió kết hợp phong phú nhất trên thế giới.

Should we lift the ban? (Chúng ta có nên dỡ bỏ lệnh cấm không?)

Với những thực tế này, Úc có nên dỡ bỏ lệnh cấm điện hạt nhân không? Việc bãi bỏ sẽ không có tác dụng thực tế đối với những gì diễn ra trên thị trường điện, nhưng nó có thể có tác động chính trị.

Một nhà lãnh đạo tương lai có thể tìm kiếm lợi thế ngắn hạn bằng cách đưa ra những khoản trợ cấp khổng lồ cho các nhà máy hạt nhân. Cái giá phải trả thực sự sẽ đến nhiều năm sau khi một nhà lãnh đạo như vậy rời nhiệm sở. Đó sẽ là bi kịch đối với nước Úc. Với nguồn tài nguyên năng lượng mặt trời và gió chưa từng có, chúng tôi có cơ hội cung cấp nguồn điện rẻ nhất ở các nước phát triển.

Ông Dutton có thể đúng khi cho rằng lệnh cấm hạt nhân là không cần thiết. Nhưng để đạt được số 0 ròng nhanh nhất và rẻ nhất có thể, ông Bowen có lập luận phù hợp. Để lặp lại một đánh giá từ Vương quốc Anh, hạt nhân đối với Úc sẽ là “điên rồ về mặt kinh tế – economically insane.”

© Reuben Finighan.

(This article is part of a series by The Conversation, Getting to Zero, examining Australia’s energy transition.)

Thân mời đọc thêm @ The Conversation

Các bài viết cùng tác giả hay cùng chủ đề (NnQ sưu tầm)

– Peter Dutton names seven potential nuclear power station sites but avoids questions on cost: Coalition will push ahead with potential sites across Australia, but serious questions remain about viability and cost. The Guardian (19/06/24). Nuclear power is currently illegal in NSW, Queensland, Victoria and federally. All of those laws would need to be overturned, and a regulatory regime for safety and waste management introduced. Debate to focus on the two unknowns: timing and cost. ABC (19/06/24)

– Bóng ma của Abbott hiện ra đằng sau chiến lược khí hậu của Dutton: Trong cuộc tấn công vào chính sách khí hậu của chính phủ Albanese trong tuần này, Peter Dutton đang đưa Đảng Tự do trở lại thời của Tony Abbott. Đó là một chiến lược mục tiêu lớn táo bạo, rủi ro, được đặc trưng bởi một xe tải tiêu cực, cũng như pha trộn với một chút phiêu lưu chính sách. The Conversation (13/06/24)

– Known unknowns: controversy over CSIRO’s electricity report reveals an uncomfortable truth (Bruce Mountain. Director, Victoria Energy Policy Centre, Victoria University) – 13/06/24

The original and still the best: why it’s time to renew Australia’s renewable energy policy (T. Nelson, J. Gilmore T. Nolan – Griffith University 19/10/23)

The road is long and time is short, but Australia’s pace towards net zero is quickening (Anna Skarbek. CEO, Climateworks Centre 02/10/23)

GenCost 2023-24 report released: Each year, CSIRO and the Australian Energy Market Operator (AEMO) collaborate with industry stakeholders to update GenCost. This leading economic report estimates the cost of building new electricity generation, storage, and hydrogen production in Australia out to 2050 (Renewables ‘solar and wind + firming’ remain the lowest cost new build electricity technology). Tải xuống báo cáo GenCost 2023-24.

June24.5

illustrtion-nhac-vang

Đem tâm tình nghe nhạc ‘sến’

Ảnh minh họa. © DDTK.

© Cao Vị Khanh

Nguồn: © Diễn Đàn Thế Kỷ (08/06/2024)

Năm 1958, ông Nguyễn Mạnh Côn xuất bản tập sách “Đem tâm tình viết lịch sử”. Đó là một cuốn sách giá trị tuyệt đối về mọi mặt. Kẻ hậu… hậu bối về mọi mặt như tôi chẳng có ý gì dám mó mé tới cạnh bên. Chẳng qua tôi khoái cái tựa. Thường khi viết sử, từ đời xưa đời xửa ở bên Tàu, nghĩa là khi còn mấy ông tự nhận con trời (thiên tử) làm vua làm chúa làm cha thiên hạ, oai quyền tột đỉnh nghĩa là muốn làm gì thì làm, vậy mà người ta cũng đã đặt ra chức sử quan…

Đọc tiếp…

Ông-quan-viết-sử ăn bổng lộc chuyên môn ghi chép chuyện nước non, từng ngày từng giờ từng phút từng giây. Nghĩa là không được bỏ sót một chi tiết, một biến cố nào đã xảy ra trong triều ngoài nội. Nhất là có-sao-viết-vậy-người-ơi! Có lẽ gọi là chép-sử sẽ rõ nghĩa hơn chăng. Viết có nghĩa chủ động, dễ lạc bút. Chép nghĩa là ghi chép, có gì nói nấy không thêm bớt, không sửa chữa, một là một, hai là hai, không có on-đơ gì hế̉t. Khác nhau như chụp ảnh và vẽ tranh. Sự thật của lịch sử là điều cấm kỵ, tối thượng, không được tô son thoa phấn mà cũng chẳng được bôi tro trét trấu. Muốn được vậy, người chép sử phải có đủ mọi đức tính, từ trung thực đến liêm sĩ, kể cả sự can trường, uy-vũ-bất-năng-khuất. Ngay cả trong bộ Kinh Xuân Thu mà Khổng Tử đã san định, ổng cũng đã đòi như vậy.

Thế mà ông Nguyễn lại đem tâm tình mà viết lịch sử! Tâm tình là cái thứ lộn xộn nhất của con người. Nay vui mai buồn mốt giận bữa kia hờn. Thứ tình cảm bộp chộp đó dễ làm sai lạc mọi nhận định. Vậy mà ông Nguyễn đòi viết lịch sử bằng tâm tình có mâu thuẫn lắm không. Thật ra dụng ý của ông u uẩn và thâm thúy hơn nhiều khi đem-tâm-tình viết về thời kỳ hỗn mang đó. Ba chữ “Đem tâm tình” cốt để xác định sự thành tâm, để bảo đảm sự chính trực của mình khi đặt bút viết lại những dòng hận sử, với ước vọng soi lại đường đi cho tuổi trẻ sau khi đã lạc bước vì những tuyên truyền đường mật của loại chính trị lọc lừa. Cái tựa với lối chơi chữ thượng thừa đó đã dựng lại một giai đoạn đen tối của lịch sử Việt Nam cận đại, và làm sáng mắt cho không ít tuổi trẻ còn mù mờ vì sự quỉ quyệt của người cộng sản. Vậy mà rồi, đâu lại vào đó. Người tin, người không tin để cho lịch sử trớ trêu, kẻ nuốt hận chui đầu vào rọ, kẻ quính quáng nhào ra khơi bán mạng cho sóng gió vô tình!!!

Cái chuyện tôi bắt chước ông ở đây chẳng qua vì lòng ngưỡng mộ của một kẻ đến sau biết ơn người đến trước nên chẳng ngại… bắt chước… cái tựa. Dẫu vậy, vẫn phải cúi đầu xin lỗi bậc trưởng thượng. Bởi vì chữ ông Nguyễn viết là máu xương là cốt tủy của một đời người thao thức vì vận mệnh của dân tộc. Còn thứ tôi viết chỉ là chuyện càm ràm qua ngày đoạn tháng. Lựa cái tựa như vậy cốt để nói rằng… dốt mà hay nói chữ. Thiệt vậy, tôi vốn là một kẻ dốt nhạc mà lại bỗng nổi hứng muốn viết về nhạc, thành ra, nói về nhạc mà nói bằng… tâm tình chớ không bằng… nhạc lý như mấy ông maestro vẫn thường hay múa đũa mà sửa méo sửa tròn mấy dàn giàn nhạc giao hưởng. Nhạc tôi muốn nghe, muốn kể lể là thứ nhạc đã có một lúc bị xử ức oan tình. Rằng thì là nhạc Boléro, nhạc máy nước, kể cả… nhạc-sến.

Có một thời tiếng Việt của chúng ta sung mãn lắm. Ngoài cái kho ngữ vựng đã dùng lâu dùng quen mà ai cũng rành, đã được ghi chép hẳn hoi vô tự điển với lời giải thích rạch ròi, hằng khi vẫn phát sinh những tiếng, những chữ mới hoặc những chữ cũ với nghĩa mới có khi chỉ nhằm để chỉ trích hay giễu cợt một hiện tượng xả hội nào đó… Riết rồi thành quen, nhập tâm và xài mát tay lúc nào không biết. Giả sử chữ… “sến”. Nếu không lầm, dường như danh từ “marie-sến” đã sanh ra và phổ biến đâu từ những thiên phóng sự với giọng văn khinh bạc trên những tờ báo hằng ngày xuất bản ở Sài Gòn, để ám chỉ những người đi ở mướn, ở đợ, giữ em, tối tối xách thùng thiếc biến chế từ thùng dầu lửa 20 lít, ra mấy cái phông-ten nước ở đầu đường, chờ chực để hứng rồi gánh nước-máy về cho chủ. Ẩn ý nhằm chê bai trình độ học thức cũng như thứ “mỹ cảm” bình dân, ít học…

Đến một lúc, chữ “sến” tách riêng ra trở thành một tính từ độc lập, hàm ý nhà-quê, dở ẹt, thấp kém… được phát biểu với giọng điệu khinh thị, khích bác, chế giễu… Vậy rồi, cho đến một lúc, dường như vào những năm 90, bỗng nghe lõm bõm đâu đó trên môi mép của quí vị tự cho mình có thẩm quyền về âm nhạc, một danh từ mới: nhạc-sến. Nhạc-sến, hình dung như một cái bĩu môi khi nói về một bản nhạc cũ đã có thời phổ biến rộng rãi ở nửa phần đất phía Nam và sau này vẫn tiếp tục phổ biến ở đó, luôn cả nửa phần đất phía Bắc bất kể có bị cấm lên cấm xuống tới nỗi riết rồi ai cũng biết… cũng mê!

Đã không rành nhạc lý, từ mấy nốt “đô” “rế” “mì” … đến cung thứ rồi cung trưởng, rồi trường canh, từ điệu Tango rồi Rumba, Cha-cha-cha… nói gì đến cái thứ nhạc cổ điển mà ai nấy đều tấm tắc khen hay dẫu có khi hai tai cứ loạn xà ngầu vì mớ âm thanh phát ra loạn cào cào của hằng chục thứ nhạc khí phát ra cùng một lúc ! Dẫu vậy, dẫu vậy tôi cũng sẽ viết về nhạc, nhạc-sến, với tâm tình của một người thích, khoái đến độ lắm khi muốn chảy nước mắt vì nhạc-sến. Ờ mà sến, hay máy nước, hay boléro hay nhạc vàng hay… hay gì đi nữa miễn là khoái tai, vừa ý, thỏa lòng thì sến hay không sến cũng có sá gì đâu.

Mà cái vụ khoái nhạc-sến này cũng phải nói cho rõ, không phải do bẩm sinh cũng không phải bị tẩy não. Mà là do nhu cầu thiết yếu của thời học đòi làm người lớn. Từ khi… lỡ-yêu-rồi-làm-sao-quên-được… – Nếu Anh Đừng Hẹn, Lê Dinh

Thử nghĩ coi, ngay lúc tuổi vừa mới lớn ở cái xứ Việt miền Nam đó, những năm năm mươi mấy sáu mươi, lỡ có muốn tỏ lòng ái mộ ai đó mà cứ moi ra mấy cái Symphonie no 9 của Beethoven hay Concerto no 1 của Chopin mà tán tỉnh thì chắc chắn là có màn thất bát dài dài… Thuở đó, đầu trên xóm dưới, trong làng ngoài tỉnh, bằng cấp cả xấp hay chỉ mới bập bẹ ba chữ i tờ gì cũng vậy… chỉ có lắp ba lắp bắp theo ông Trúc Phương Ai cho tôi tình yêu của ngày thơ ngày mộng / Tôi xin dâng vòng tay mở rộng / Và đón người đi vào tim tôi / Bằng môi trên bờ môi… – Ai Cho Tôi Tình Yêu, Trúc Phương, là mới hy vọng có thể mở được đường-vào-tình-yêu.

Mà chắc cũng không phải chỉ mình tôi tin như vậy. Còn tin hay không là quyền của bá tánh. Có điều, chuyện đờn-ca-hát-xướng ở miền Nam thuở trước nếu không đúng hẳn thì cũng hao hao như vậy. Nếu không vậy, làm sao nhà xuất bản Tinh Hoa in nhạc với tờ giấy xếp đôi có trang bìa là hình vẽ của họa sĩ Duy Liêm, mấy cái phòng trà, mấy chỗ sang lậu băng ca-sét, chưa kể quí vị được trời cho cái giọng thiên phú… làm sao sống nổi một cách vinh quang trong một xứ sở mà tiếng đạn bay mìn nổ nghe riết đã muốn lãng tai ! Nói như vậy để thấy cả một nền âm nhạc mà người ta gọi là nhạc-sến cho đành đó, là cả một gia-tài-của-mẹ, chữ của ông Trịnh Công Sơn. Chớ có phải chơi đâu.

Thử nghĩ coi, nghệ thuật để làm gì nếu không phải là để đáp ứng cho khát vọng đi tìm “cái đẹp” của nhân sinh. Dẫu có chọn cho mình một đường hướng nào đi nữa, nghệ thuật mà không có người thưởng thức thì chỉ có nước đem vô mấy trại cải tạo mà làm trò tẩy não. Ngay cả chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật đi nữa, rốt lại vẽ, làm thơ, viết nhạc… mà không có ai trố mắt nhìn, vểnh tai nghe, chong mắt đọc thì cũng y như kiểu… nói chuyện với đầu gối. Vậy thôi.

Như vậy, nhạc mà làm mê mẩn cả mấy thế hệ người nghe thì nếu không gọi là nghệ thuật thì gọi là gì cho phải đây?! Vả lại, y như mọi ngành nghệ thuật khác, nhạc như thơ cũng cần sự cảm thông bằng trực giác trước khi bỏ lên bàn mổ. Hãy thử bắt chước Xuân-Diệu-thời-tiền-chiến… ai đem phân chất một mùi hương / hay bản cầm ca tôi chỉ thương / chỉ lặng truồi theo dòng cảm xúc / như thuyền ngư phủ lạc trong sương. Được chăng?

Bởi vậy, nói gì thì nói đem mớ ca nhạc một thời đó ra giễu cợt, dè bỉu chẳng qua chỉ là chuyện tự dối lòng của mẫu người tự cao tự đại, thiếu thành thật ngay cả với chính mình. Nế́u không, có thể là một cách thức phản-tuyên-truyền của đám cầm quyền cộng sản, muốn cấm đoán, muốn tiêu hủy mà bất lực trước sự thưởng thức dù có khi phải lén lút của đại đa số người hâm mộ, ở ngoài cũng như còn kẹt ở trong nước. Y kiểu mấy mụ đàn bà xấu tánh, ham muốn hay cấm đoán hoài mà không được bèn quay qua nói xấu cho… hả giận!

Trở lại với dòng nhạc của một thời đã qua, đang qua, và sẽ còn đó để qua hoài…

Ai sao không biết, còn tôi, sau khi dong ruổi ba đồng bảy đổi trong cái thế giới âm nhạc tây tàu, xưa nay, cũ mới, new age, kể cả ráp riết v.v… cuối đường lạng quạng xin được quày đầu trở về với dòng nhạc mà số phận đa đoan chẳng kém vì người làm ra nó và người yêu thích nó. Thứ nhạc mà người ta phán cho là nhạc-sến!

Nếu nhớ không lầm thì cái “gu” cũ-người-mới-ta này đã lậm thêm vào người đâu chừng đôi mươi năm nay, nhất là từ khi sẩy bước xuống ghe tìm đường bôn tẩu khỏi cái đất nước mới vừa… độc lập! Số là sau khi bôn tẩu trên dặm nghìn sóng nước, được đặt chân lên đất lạ rồi được đặc ân cho làm người ra giống người, được ăn thêm bơ sữa, bánh mì, pizza… no nứt bụng rồi có lúc bỗng quay ra thèm đến chảy nước miếng cái mùi mằn mặn tanh tanh của nước mắm pha chút dấm chút tỏi, dầm chút ớt chút tiêu… Khổ nỗi, thời đó người cùng giống rồng-tiên (!) bỏ ổ còn quá ít ỏi nên lắm khi cũng đành tìm quên với nước tương xì-dầu của mấy chú con trời ở China town.

Vậy rồi nhờ vận rủi may, người bỏ xứ trốn tự-do-hạnh-phúc-độc-lập của bác-và-đảng càng lúc càng đông nên nước mắm và hương vị quê hương càng lúc càng bay mùi thơm phức trên xứ người. Có nước mắm, phở tái chín nạm gầu gân sách… tạm lấp đầy cái bao tử tha hương rồi là nổi chứng nhớ thương mấy cái vụ đờn ca xướng hát của một thời Sài-gòn đèn xanh đèn đỏ. Nhất là những hôm giáp tết xứ người. Trời mùa đông lạnh cóng, hoa mai hoa đào đâu không thấy, chỉ thấy tuyết bay mù mắt, phủ trắng cây cỏ núi đồi phố xá, phủ trắng cả tấm lòng của những kẻ mất quê hương. Chiều ba mươi, nấu mâm cơm cúng vái ông bà, dọn ra bàn chưa kịp thắp mấy nén nhang là trong lòng đâu như ai đã dạo sẵn mấy nốt hò xự xang xê cống líu rồi bắt giọng mà ngân nga để sửa soạn xuống xề. Cứ mỗi lần thấy bông ô môi nở hồng trong gió sớm, mỗi lần nghe tiếng quết bánh phồng vội vã đón xuân sang, cứ mỗi lần có dịp về Vĩnh Long ngang làng Tân Ngải chợ Trường An … – Tuyệt Tình Ca, Hà Triều Hoa Phượng. Ngay lúc đó, mà đâu đó lại bồi thêm mấy câu tân nhạc của Trịnh Lâm Ngân nữa thì thôi khỏi nói. Con biết bây giờ mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương / Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về / Nay én bay đầy trước ngõ / Mà tin con vẫn xa ngàn xa –Xuân này con không về, Trịnh Lâm Ngân.

Con mắt đâu ai xát muối mà cứ cay cay, đầu mũi muốn rục rịch mà cứ ráng kềm sợ con nít nó cười. Dẫu vậy, cái đầu lại cứ quay mòng mòng với bao nhiêu hình ảnh cũ dẫu đã xa mút… mù xa. Cái thuở trời miền Nam nắng vàng như nghệ, đêm châu thổ nồng ẩm như hơ, những cơn mưa mùa vụt chạc, những con kinh dậy phèn, những lạch nước úng bùn, những bến đò thắt thẻo người sang, những chái liếp hở hang, những cội tre xơ xác, những chùm lá me tíu tít, những gốc phượng đỏ hè, những mái trường lợp thiếc, những chiếc áo dài trắng lắt lay, những chợ chiều hiu hắt, những xề bánh khọt lề đường, những xe nước mía ngã tư, những con đường liên tỉnh mấp mô, những con đường mòn lẩn lút… Và những mặt người. Ờ, những mặt người quen kẻ lạ, những thân thuộc đã sinh ly, những ruột rà đã tử biệt ngay khi vừa mới quay lưng chưa kịp nhìn lại một lần … ghe đã tách bến ! Sài-gòn, Vĩnh-long, Rạch-giá, Mỹ-tho, Cần-thơ, Cà-mau … chỉ là những tên gọi hay vốn là thịt da máu huyết chảy luồn tận trong tim, đóng chốt trong não từ hồi nào không biết.

Lâu rồi, tưởng đã quên luôn. Vậy mà… vẫn nhớ!

Y như ông Thế Uyên có lần đã viết, ̣đại khái như là nghe nhạc là sống lại kỷ niệm, rõ ràng, với tôi, lắm khi nghe lại những bản nhạc của một thời muốn-quên-mà-cứ-nhớ đó, là sống lại y khuôn một thời quá vãng, thuở còn loi choi giữa tuổi con nít và người lớn, học đòi mơ mộng giữa thực tại và trăng sao, giữa những nề nếp rành rọt như một bài học-thuộc-lòng. Song song với cái tuổi lưng chừng đó là cả một thế giới âm thanh, dù phải chen lấn với tiếng đạn réo mìn gầm, vẫn đủ sức đem lại cả một trời mơ mộng với hoa với bướm. Y như một thứ nhạc đệm cho cảnh cũ tình xưa. Tình nào nhạc nấy. Đến lúc mọi kỷ niệm đã mù mịt, thì những nốt nhạc cũ đó trở thành dấu chỉ cho một bước tìm về. Quê cũ. Nẻo cũ. Nhà cũ. Trường cũ. Tình cũ… Ôi, biết bao ân tình ân nghĩa đã bị lấp liếm đằng sau bao nhiêu dâu bể! Bao nhiêu dấu vết đã mờ mà cái trí nhớ còm cõi càng lúc càng lệch lạc ! Còn lại chăng, những dòng nhạc cũ như một nhắc nhở, dẫn đường cho những hồi ức về một cõi đời đã xa… xa đâu đến tận ngoài tầm nhớ!

Nghĩ coi, một lần nào, một lần nào trong hơn mười bốn ngàn đêm sống lạc trên xứ người, bỗng vọng lại tiếng ai hát, lẫn lẫn trong điệu nhạc rumba… đường xưa lối cũ, có me tôi tóc rưng rưng trong hôn hoàng. Rồi đổi sang điệp khúc… khi tôi về nghẹn ngào trong nắng / tưởng mẹ tôi rưng rưng đứng đón con về / nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời / không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ – Đường xưa lối cũ, Hoàng Thi Thơ. Ngay lúc đó, nghe mà lòng không nhúc nhích thì chắc nếu không phải là Tây thì cũng là Tàu!

Nhiều, nhiều lắm, làm sao kể ra cho xiết. Thứ ân tình, ân nghĩa đã nuôi dưỡng hồn người bằng âm điệu ngọt ngào, đỡ đần với lời lẽ quen thuộc, cùng với tám nốt nhạc nương theo năm dấu giọng đã nằm lòng ngay từ buổi mới bập bẹ mấy tiếng mẹ cha. Tai nghe vậy mà lòng trơ trơ sao nỡ?!

Đành quên sao anh, những con đường mùa trăng ấy, thao thức đêm trường nghe từng bước em đi / Đành quên sao anh, đáy mắt hiền trong xóm vắng, nắng thu vàng nhìn ngơ ngẩn bóng người đi –Đành quên sao, Hoàng Thi Thơ.

Từ khởi thủy, khi còn gọi là âm nhạc cải cách, đến khi bỏ chạy tuốt vô trong Nam sau năm 54, trải suốt mấy chục năm trời nương theo dòng sinh mệnh của dân tộc, thứ âm nhạc đó đã nói giùm cho chúng ta hết mọi nỗi niềm, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ kỷ niệm đến viễn mơ, từ một rung động nhẹ như tơ trời đến một xúc cảm mạnh như gió bão, từ một vọng tưởng đến một hoài niệm… và… chuyện tình riêng, chuyện nước non… nhất là từ khi cả một dân tộc vô tội bị lùa vào làm mồi cho lửa đạn vì tham vọng của một số người cuồng tín. Chính từ đó phát sinh thêm một loại nhạc mà người ta gọi là Nhạc Lính. Ở một xứ sở mà lính tráng chiếm gần 1/20 dân số, chuyện đó cũng chẳng có gì khó hiểu. Có điều qua cái kho nhạc lính đó, người ta khám phá ra một sự thật. Trong khi những cán binh ngoài Bắc được nhồi sọ sùng sục một mối căm thù đồng chủng ngay từ lúc mới biết đọc biết viết, người lính miền Nam, dù vẫn phải gánh trên vai cả một núi nợ nước non vẫn là những con người bình thường, rất đỗi bình thường với hết mọi thứ yêu thương hờn giận… Dù cho đó có thể là một phần nguyên nhân của cuộc bại trận tức tưởi. Nhưng biết sao hơn, làm người với đủ đầy nhân tính! Thử nghe lại vài câu hát của Trần Thiện Thanh.

Từ khi anh thôi học, từ khi anh khoác áo treilli / Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây / Ngại chăng dêm di hành và thường khi dừng bước giữa hoang vu / Một thằng ước ao để một thằng khát khao, còn mình thì nằm đếm sao

… Đồn anh bên sông cạn / Và hoàng hôn ướt đẫm đáy sông thưa / Nhiều tên trong đơn vị gọi đùa anh chiến sĩ của mộng mơ– Thư tình của lính.

Còn gì dễ thương mà xác thực hơn nữa. Những người trẻ tuổi, mười tám đôi mươi từ giữa những năm 50 đến giữa những năm 70, ở miền Nam Việt Nam, đã phải dang thân chống giữ xóm làng bằng xương máu của chính mình nhưng chưa bao giờ đánh mất nhân tính. Họ vẫn mơ mộng, vẫn cắn răng chiến đấu và vẫn giữ trọn lòng nhân ái. Chẳng bù với những người đối đầu với họ!

Xét về phương diện nhạc lý, có thể có người cho là dễ dãi, là nghèo nàn… tuy nhiên thử sống lại thời buổi chiến tranh đó, khi mà mọi thứ đều gần như bị giới hạn bởi điều kiện… chiến tranh, ai sẽ làm hơn được nữa. Chúng ta sống thuở đó trong điều kiện sống thu hẹp, bởi mọi thứ lý do. Một bản nhạc được trình diễn nhiều lắm với một ban nhạc năm bảy người với dàn trống, một hai tay kèn, vài tay đàn giây… đã là lý tưởng. Dương cầm là phải chui tuốt vô trong mấy cái phòng trà tiệm nhảy. Còn ngoài ra, nhiều khi một cây tây-ban-cầm đã quá đủ.

Những buổi sinh hoạt ngoài trời, trong một lớp học, giữa một giảng đường, trên một bãi cỏ cạnh cổng một quân trường… âm nhạc thời chiến không thể đòi hỏi hơn nữa. Vậy mà, dường như cái loại nhạc… sến đó đã làm đủ phận mình, xoa dịu được những nỗi lòng sầu muộn vì ngăn cách hay hớn hở khi sum vầy. Loại nhạc… sến đó đã thay người ta cười, khóc… theo vận nước, thay người ta buồn bã lúc tình xa, rộn rã khi đón người về, khóc giùm ta cho một người nằm xuống, mơ giùm ta một ngày trả súng về xây lại quê hương… Nói sao cho hết những diệu kỳ của sự phối hợp giữa những nốt nhạc với chữ nghĩa của một thời. Thử một thí dụ vài ba chữ với vài ba nốt nhạc của người mà thiên hạ phong là Ông Vua Boléro, nhạc sĩ Trúc Phương. Trong một bài hát rất được ưa thích thời đó, thời của những trại lính, những quân trường, những trận mạc… Bài 24 Giờ Phép.

Từ xa tôi về phép hai mươi bốn giờ / Tìm người thương trong người thương / Chân nghe quen từng viên sỏi đường nhà / Chiều nghiêng nghiêng nắng đổ / Và người yêu đứng chờ ngoài đầu ngõ bao giờ.

Cửa tâm tư là mắt nên khi đối mặt / Chuyện buồn dương gian lẩn mất / Ðưa ta đi về nguyên thủy loài người / Lời yêu khi muốn ngỏ vụng về / Ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay.

Phải công nhận người ta phong vương cho ông cũng là phải. Ông đặt nhạc đã êm tai dù lắm khi lắt léo âm điệu, đảo nghịch cung bậc đến não nùng. Ông xài chữ còn thuộc loại bậc thầy. Người con trai đi lính chỉ có được 24 giờ phép về thăm vợ trẻ, (hay người tình) mà đã mất hết 8 tiếng đồng hồ đi lại. Thời gian không ai thúc mà cũng tự nhiên thành gấp rút. Gặp nhau rồi vội vội vàng vàng. Khổ nỗi, bao nhiêu thương nhớ, bao nhiêu thiết tha, bao nhiêu tức tưởi … nói sao cho kịp, nói làm sao cho hết. Trong điều kiện không gian chật chội thời gian hấp tấp đó, ông giải quyết cái một. Lời yêu khi muốn ngỏ vụng về / Ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay. Nói năng lắp ba lắp bắp, mà càng gấp gáp người ta càng lập bập… Hay nhất là để cho hai bàn tay mười ngón nói thay giùm! Ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay. Nhất ông, ông nhạc sĩ Trúc Phương! Vừa gọn gàng mà sát nghĩa mà tượng hình mà…

Những dẫn dụ như vậy nhiều lắm, những người nhạc sĩ tài ba một thời ở đất nước tôi. Kể ra làm sao cho hết! Chỉ tiếc là ông trời ổng tính sao mà làm cho ngược đời ráo trọi.

Nghe lại những bản nhạc thịnh hành thuở đó, và còn thịnh hành gần nửa thế kỷ sau, ở bên ngoài đất nước, hay chính ngay trong lòng đất nước đã mất, mới thắy ảnh hưởng của dòng nhạc nhân ái đó như thế nào. Không hay sao còn làm rung động mãi tới bây giờ ở cả hai phe vốn đã một thời thù địch. Không hay sao cứ như con phượng hoàng sống dậy từ lửa đỏ. Thứ lửa đỏ mà đám người cuồng tín đã đốt phừng lên sau năm 75 cốt để tiêu hủy hết mọi thứ gọi là… đồi trụy, phản động.

Vậy mà không! Không! Gần năm mươi năm sau, cái mớ phản động đó vẫn còn… động đậy. Mà động mạnh nữa chớ. Hồi trước chỉ trình diễn trong nhà, trong phòng, trong rạp…, bây giờ thì trình diễn cả ngoài đường, trên hè phố, giữa chợ cá đồng cá biển… Hổng tin lên You tube mà coi, ở cái xứ gọi là CHXHCN Việt Nam bây giờ, người ta đẩy cả thùng loa ra phố xá mà ca hát những bản nhạc bị cấm đoán một thời. Nói vậy cũng không có nghĩa tất cả đều là tuyệt phẩm. Nhưng thử nghĩ coi ngó một bãi cỏ vào xuân thấy xanh mướt, vậy mà vẫn có lẫn lộn những cọng cỏ dại đó đây. Ông trời ổng còn không cản nỗi nói chi cái đám nhốn nháo nơi cõi hồng trần. Vả lại có xấu mới thấu cái đẹp. Đó cũng là cái thói trớ trêu của tạo hóa. Sao đem gom-đũa-cả-nắm cho đành!!!

Lại nữa, còn nghe kể lại chuyện xưa, có một lúc nào đó, ở ngoài Bắc, ngay cái ổ của chế độ tiên-tiến-nhất-nhân-loại, vào những năm 50-60 có người còn bị nhốt lên nhốt xuống chỉ vì cái tội mê nhạc, loại nhạc mà những kể cầm quyền gọi là Nhạc Vàng (*). Dụng ý chắc là để phân biệt với loại nhạc đỏ … viết bằng máu! Nhưng kể ra gọi là vàng thì cũng đúng. Đó là thứ vàng thiệt vàng ròng.

Nhắc lại vậy không có ý lẫn lộn giữa dòng nhạc gọi là tiền chiến với nhạc ở miền Nam sau năm 1954, nhưng ít hay nhiều cả hai đều có chung một nguồn cảm hứng, xuất phát từ những rung động chân thành của tình người, tình nước vốn được nuôi dưỡng trong lòng một nền văn hóa đã ngàn năm nhân bản. Trái hẳn với lối sắt máu của một thứ chủ nghĩa ngoại lai, được nhập cảng bằng máu, nước mắt, xiềng xích với tù đày. Và đẻ ra thứ âm nhạc quái thai kiểu Cô gái vót chông, Cô gái SG đi tải đạn, Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân… mà đâu đó ít lâu sau bỗng tắt tiếng im hơi vì… chẳng còn ai muốn nghe.

Kể lể lăng nhăng cho vui rồi lại thấy buồn buồn. Thiệt y như chuyện … hồng nhan bạc mệnh. Hết bị đày ải… rồi phỉ nhổ, đủ thứ trò phụ rẫy mà sao vẫn một dạ thủy chung hết lòng mua vui cho thiên hạ. Hổng tin, cỡ này, nếu có dịp chui xuống mấy cái hầm nhà của đám người Việt bỏ nước lưu vong, ở mọi nơi trên mặt đất mênh mông này, sẽ thấy không ít nhà nào nhà nấy đều có “sân khấu” dựng quanh một giàn máy gọi là ka-ra-ô-kê, mà vốn liếng trình diễn chính là mớ nhạc Việt xưa… được (bị) gọi là … nhạc sến đó. Kể ra cũng đỡ buồn cho cái đám lỡ làng cảnh nước đục bụi trong.

Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, tròm trèm nửa đời người, những người chết đã chết, những người còn sống lưu lạc xứ người hay vật vờ nơi đất mẹ, mọi thứ giá trị ít hay nhiều đã được sàng lọc. Cái mất đi có lý do của sự tiêu hủy. Cái còn lại cũng có lý do của sự tồn tại.

Ai gọi nhạc-sến thì cứ gọi. Còn tôi, tôi nghe nhạc với tâm tình của tôi. Âm nhạc không chỉ tính bằng nốt thăng nốt giáng. Âm nhạc còn tính bằng sự rung động của những tấm lòng.

© Cao Vị Khanh

Thân mời đọc thêm @ Tạp chí Diễn Đàn Thế Kỷ

Các bài viết cùng tác giả hay cùng chủ đề (NnQ sưu tầm).

Ca sĩ nhạc vàng hát nhạc đỏ
Quái kiệt Trần Văn Trạch
NS Lê Dinh
NS Lam Phương
NS Trầm tử Thiêng
NS Vũ Đức sao Biển
NS Lê Uyên Phương

W2

trun-dat

Tàu cộng mua trùn đất!

© Ảnh nlsct.

Nguồn: ‘Đa Dạng Sinh Học Trong Đất’ TS TĐH

© Trần-Đăng Hồng, PhD (1/2/24)

Cách đây không lâu (tháng 8/2023), báo chí ở Việt Nam có tường trình các nông dân ở Miền Bắc dùng bình điện của Trung Quốc sản xuất kích hoạt vào đất để trùn đất chui ra khỏi hang, và họ bắt để bán cho Trung quốc dùng làm thuốc. Với phương pháp này, chỉ một thời gian sau, vườn cây của họ, trước đây tươi tốt nay bổng trở nên tiêu điều. Vì mối lợi nhỏ trước mắt, họ đã tiêu diệt tất cả sinh vật ở trong đất, những sinh vật này vốn đóng góp rất nhiều vào việc phì nhiêu đất đai!

Nguồn: © NLSCT

NnQ: Dã tâm của ‘Tàu cộng’ là phá hoại kinh tế Việt nam, Hảy nhìn lại chính sách ‘Ốc bưu vàng’ đã và đang tiếp tục gây thiệt hại cho nông dân hàng chục năm qua như thế nào. Cứ trung bình 1 mẫu tây canh tác lúa phải tốn khoảng 1 triệu đồng/năm chỉ riêng thuốc diệt ốc, hàng triệu hecta lúa thì phí tổn sẽ lên đến bao nhiêu! Mối nguy lớn nhứt của Việt nam là các chính quyền Trung Hoa.

Vua Trần Nhân Tôn, “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa nước Tàu.”

June24-4

Eu-Parliament-logo

Nghị Viện Châu Âu

What does the Parliament do?

9th European Parliament. © Wiki.

© Thùy Dương

Nguồn: © RFI (09/06/2024)

Cùng với Hội Đồng Châu Âu, tập hợp nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ của các nước thành viên và Ủy Ban Châu Âu, vốn được xem là cơ quan hành pháp của Liên Âu, chuyên đề xuất các dự luật và thực thi các điều luật, Nghị Viện Châu Âu là cơ quan có quyền lập pháp, xem xét và biểu quyết các dự thảo luật và ngân sách của Liên Hiệp, cũng như kiểm soát bộ máy hành pháp của Liên Âu…

Đọc thêm

Các bài viết cùng tác giả hay cùng chủ đề (NnQ sưu tầm).

European Parliament

EU elections: far-right parties surge, but less than had been expected

Bầu cử Nghị Viện Châu Âu 24 (Các đảng cánh hữu theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan chiếm ưu thế!)

Bầu cử Tổng thống Mỹ 2024: cuộc đấu tranh giữa dân chủ và độc tài!

June24.3

phap-985-1947Phiếm Luận Về Tiếng Phú Lang Sa

Since 1848, the rooster has been seen on the seal of the Republic (Liberty is seated on a rudder decorated by a rooster); it was used from 1899 as a motif on gold 20 franc coins and it occasionally appears on stamps. © Embassy of France.

© Người Lính Già Oregon. Nguồn: © Phạm Tín an Ninh Blog (04/01/2024)

1. Mấy bữa ni, vào tháng Năm, 2021, đọc trên các báo Mỹ (Newsweek, Washington Examiner…) và Pháp (Le Journal du Dimanche) thấy có tin đăng tải rằng, tại nước Pháp, thầy và cô giáo trong một số trường học ‒ vốn cấp tiến, chủ trương bình đẳng nam nữ, bảo vệ nữ quyền ‒ đã muốn có một giới tính trung lập (genre neutre) cho danh từ Tây nói chung, và văn phạm Tây nói riêng.

Chuyện này nghe quen quen, vì phong trào “chuyển giới tính” cho ngôn ngữ đã manh nha bắt đầu từ một, hai năm trước ở Pháp, nhưng không quyết liệt như vào thời điểm này. Tuy nhiên, nó cũng làm tiện nhân nhớ lại một chuyện xảy ra tại Mỹ, 5 tháng trước đó ‒ liên quan tới anh chàng dân biểu (D-Missouri) Emanuel Cleaver, một cựu mục sư nhà thờ United Methodist, và cựu thị trưởng Kansas City, một anh đương kim DemoK-Rat thuộc loại khùng hết thuốc chữa, vào ngày January 5, 2021 vừa qua, sau khi kết thúc bài diễn văn đọc trước Hạ Viện Mỹ bằng chữ A-men, và một A-women rất nhảm nhí, lố bịch, đã làm trò cười cho cả bàn dân thiên hạ. Khiến một anh chàng trong giới truyền thông Mỹ phải nói đùa rằng khi nhắc đến mì gói Ra-men thì Xin ông chớ quên mì Ra-women đấy nhé…

Đọc thêm

Các bài viết cùng tác giả hay cùng chủ đề (NnQ sưu tầm).

(*) The Gallic Rooster. The Latin word “gallus” means both “rooster” and “inhabitant of Gaul”. Certain ancient coins bore a rooster, but the animal was not used as the emblem of the tribes of Gaul. Gradually the figure of the rooster became the most widely shared representation of the French people.

(**) The Rooster (The Presidency of France).

W1

Tô đại tướng rớt kiếm phút 89

Bộ Chính trị “lật kèo”, Tô Đại tướng rớt kiếm phút 89!

Nguồn: © Gió Bấc (RFA 21/05/24)

to-lam-tuyen-the-may2-24

Tô Lâm being sworn in as the 13th President on May 22, 2024. © Wiki

Ba mươi chưa phải là tết“, “đừng thấy đỏ mà tưởng là chín”. Danh ngôn của Tổng Trọng vô cùng thâm thúy, vận hành vô cùng vi diệu, cho thấy chính trường Việt Nam trắc trở, biến ảo không lường. Những tuyên bố chắc nịch trước ngày họp Quốc hội cho thấy Tô Đại tướng cầm chắc hai suất Chủ tịch nước và Bộ trưởng Công an. Bất…

Đọc thêm @ TẠI ĐÂY

June24-2

dday-80

The 80th Anniversary of D-Day. © National Geospatial-Intelligence Agency

Năm nay đánh dấu kỷ niệm 80 năm cuộc đổ bộ D-Day ở Normandy, Pháp, vào ngày 6 tháng 6 năm 1944. D-Day và trận Normandy đánh dấu bước đầu tiên trong quá trình quân Đồng minh giải phóng châu Âu khỏi sự chiếm đóng của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai…

– Tướng Dwight D. Eisenhower, Tư lệnh Tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh, “Những người lính, thủy thủ và phi công của lực lượng viễn chinh đồng minh! Bạn sắp bắt tay vào cuộc Thập tự chinh vĩ đại (On the great crusade) mà chúng ta đã nỗ lực hướng tới trong nhiều tháng qua. Con mắt của thế giới đang dõi theo bạn. Niềm hy vọng và lời cầu nguyện của những người yêu tự do khắp nơi sẽ đồng hành cùng các bạn…”

Đọc thêm

June24-1

Từ chuyện Hứa Do

illustration-img

…rửa tai tới chuyện Phật

© Thiện Quả Đào Văn Bình.

Nguồn: © Thư Viện Hoa Sen (27/03/2024)

Ảnh minh họa. © vietbao

Sách Cổ Học Tinh Hoa có chép chuyện Sào Phủ và Hứa Do, hai ẩn sĩ đời Vua Nghiêu. Câu chuyện như sau: Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi thiên tử. Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai.

Khi đó, Sào Phủ vừa dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao rửa tai? Hứa Do trả lời: “Ông Nghiêu đòi tôi đến, mời tôi làm vua.”

Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên dòng nước cho uống…

Đọc thêm

Các bài viết cùng tác giả hay cùng chủ đề (NnQ sưu tầm).

Thảm họa Facebook!

Việc nhân nghĩa cốt ở an dân

Thiền Sư Và Gã Cờ Bạc Bịp.

Biển Ơi Trả Cho Ta

Leave a comment