ĐBSCL 2020 Cánh đồng chết và 45 năm ảo vọng trí thức

1. ĐBSCL Cánh đồng chết và 45 năm ảo vọng trí thức

© Ngô Thế Vinh

Source: Boxit.vn (30/04/20)

gs-NDX-gsPHH

GS Nguyễn Duy Xuân (trái) và GS Phạm Hoàng Hộ

Tưởng nhớ GS Nguyễn Duy Xuân, GS Phạm Hoàng Hộ,

Hai tượng đài trí tuệ kiệt xuất, bất khuất của Miền Nam

Lời Dẫn Nhập: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ sau khi hoàn tất bộ sách đồ sộ “Cây cỏ Việt Nam” mà Giáo sư gọi là “công trình của đời tôi” và vào mấy năm cuối đời, như một Di chúc, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho:

“Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước. Tặng Giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên Viện trưởng Đại học Cần Thơ, mất ngày 10-11-1986 tại trại Cải tạo Hà-Nam-Ninh. Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.

Thế hệ sinh sau 30 tháng 4, 1975 nay cũng đã 45 tuổi rồi, cũng là 45 năm của một chính sách ngu dân lãng phí/huỷ diệt nguồn chất xám, và lăng nhục cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Và nghĩ xa hơn, một Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ không chết như ngày nay nếu có một nhà nước biết trân trọng sử dụng nguồn chất xám ấy, mà biểu tượng là hai trí tuệ kiệt xuất của Miền Nam như Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, là hai thành viên sáng lập Viện Đại học Cần Thơ năm 1966, và sau 1975 cả hai có cùng một ý nguyện chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất.

Để rồi, GS Nguyễn Duy Xuân thì chết thảm sau 11 năm bị đày đọa trong trại tù cải tạo Hà-Nam-Ninh ở Miền Bắc, và GS Phạm Hoàng Hộ thì trải qua một chặng đường vô cùng đau khổ qua “một thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên, giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường quê hương” để rồi kết thúc là một cái chết buồn bã xa nửa vòng Trái đất bên ngoài quê hương, một quê hương mà ông suốt đời gắn bó và chẳng bao giờ muốn xa rời. Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một Giáo sư Nguyễn Duy Xuân những năm sau 1975, là tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Trang sử ảm đạm ấy là một bài học đắng cay cho cả một dân tộc sẽ không thể và không bao giờ quên. Với các thế hệ trẻ sau 1975 ở khắp năm châu, cùng với bản tiếng Việt, nay có thêm bản tiếng Anh để các bạn dễ dàng tiếp cận hơn với bài học lịch sử ấy…

Những năm ảo vọng, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” (Peter Shaw Ashton, Giáo Sư Charles Bullard, Ngành Lâm Học, Đại Học Harvard)

“Với những ghi chú bằng tiếng Anh, cùng với những nét minh hoạ tinh vi của hơn 10.500 chủng loại, bộ sách Họa hình Cây cỏ Việt Nam/Illustrated Flora of Vietnam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã cung cấp cho giới độc giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham khảo thấu đáo mà chúng tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng đài của sự quyết tâm, cống hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hầu như đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có tầm vóc hàn lâm/ academic tại Đại học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn. Trong hoàn cảnh cực kỳ thử thách ấy, Giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu cho bộ sách đặc sắc này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để minh hoạ. Và nay công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà sinh học trẻ ở Việt Nam và cả ở hải ngoại.

2. Giáo sư Nguyễn Duy Xuân – Ngọn hải đăng trí tuệ miền Tây

Người bạn đồng hành

Đến năm 1970, bước đầu xây dựng được một Đại học Cần Thơ vững vàng, để có thể trở về Sài Gòn tiếp tục các công trình nghiên cứu khoa học và giảng dạy, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ chính thức mời Giáo sư Nguyễn Duy Xuân về thay ông, làm Viện trưởng thứ hai của Viện Đại học Cần Thơ.

Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925, hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ bốn tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Vanderbilt-Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, Giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo Ban giảng huấn, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây. Ông là người tiên phong thực hiện giáo dục đại học theo tín chỉ / credits (thay vì chứng chỉ, certificate như trước đây); giống như mô hình hệ thống Đại học Hoa Kỳ. Ông còn gửi cả một đội ngũ giảng viên trẻ đi du học, điển hình như anh Trần Phước Đường đi Mỹ tốt nghiệp Tiến sĩ tại Đại học Michigan, sau đó họ trở về trường phục vụ ngành Sinh học, Giáo sư Trần Phước Đường sau này trở thành Viện trưởng Đại học Cần Thơ từ 1989 tới 1997…

Từ ảo vọng tới thảm kịch

…GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa ra Bắc, giam trong trại tù Hà-Nam-Ninh, hầu như không có ngày về. Tiếp tục bị đày ải thêm ba năm nữa, tổng cộng 11 năm, GS Nguyễn Duy Xuân đã chết trong tù cải tạo Hà- Nam-Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao…

Trại tù Ba Sao Hà-Nam-Ninh, Miền Bắc Việt Nam, nơi triền núi phía sau trại tù là nghĩa địa chôn vùi xác rất nhiều tù nhân cải tạo có gốc từ Miền Nam sau 1975, thân xác Giáo sư Nguyễn Duy Xuân được vùi nông trong nghĩa địa trại tù Ba Sao này. Mãi 30 năm sau, con gái ông là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ cha đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao về Chùa Thiên Hưng, Quận Bình Thạnh Sài Gòn.

tro-cot-gs-NDX-va-con-gai

Từ trái, GS Võ Tòng Xuân, bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga con gái GS Nguyễn Duy Xuân, ôm bình tro cốt của cha, bạn trai Alan và một thân hữu [nguồn: Võ Tòng Xuân]

GS Phạm Hoàng Hộ sinh nhật 80

Tháng 7 năm 2009, một số môn sinh đã tổ chức tại Montréal một lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của GS Phạm Hoàng Hộ, cùng với một bức tượng được đem tới tặng Thầy với phát biểu đầy xúc động của một môn sinh: “Bức tượng không phải chỉ là hình ảnh của một Giáo sư Thực Vật đáng kính mà còn là biểu tượng của người trí thức Miền Nam, đã hiến trọn đời mình cho khoa học, hết sức khiêm tốn so với tài năng của mình và nhất là hết lòng yêu quê hương đất nước.”

gs-PHH

GS Phạm Hoàng Hộ bên bức tượng bán thân do một điêu khắc gia người Canada là bác sĩ Megerditch Tarakdjian thực hiện nhân dịp sinh nhật thứ 80 do một số môn sinh tổ chức tại Montréal, Canada. 

Di chúc giữ xanh đất mẹ

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã xem bộ sách “Cây cỏ Việt Nam là công trình của đời tôi” và Giáo sư đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho: “Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước…

Đọc tiếp @ TẠI ĐÂY

TS Nguyễn Duy Xuân

GS Nguyễn Duy Xuân sinh năm 1925 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, cựu học sinh Collège de Cần Thơ. Sau khi đậu bằng Diplôma (văn bằng thành chung). GS sang Pháp du học tốt nghiệp cử nhân kinh Tế. Ông tiếp tục theo học chương trình sau đại học ở Anh, lấy bằng Thạc sĩ về kinh tế học; tiếp đến sang Mỹ theo học ở đại học Vanderbilt, và lấy học vị Tiến sĩ kinh tế học rồi trở về Việt Nam năm 1963.

Trong thời gian giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ, GS Xuân đã nỗ lực phát triển viện đại học trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo cán bộ giảng huấn,ngân sách, tài trợ, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm đến tổ chức hành chánh, y tế sinh viên và thiết lập ký túc xá dành cho sinh viên đến từ các tỉnh miền Tây.

GS Xuân đã đẩy mạnh phát triển hai ngành sư phạm và nông nghiệp với viễn kiến nhằm đạo tạo những giáo chức trung cấp để mở rộng mạng lưới giáo dục, nâng cao trình độ dân trí và những cán bộ chuyên môn với những kiến thức về khoa học và kỹ thuật nông nghiệp để gia tăng tiềm năng sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long.

Sơ Lược Tổ Chức Quản Lý Và Giáo Dục Nông Nghiệp Việt Nam

© Trần Văn Đạt, Ph.D.

Nguồn: Cựu HS Tống Phước Hiệp Vĩnh Long (24/10/2016)

vien-khao-cuu-nong-nghiep-saigon

Viện Khảo Cứu Nông Nghiệp © LSTLVKCNN

Khi con người bắt đầu có chút ít nhận thức sự ổn định cuộc sống để tồn tại và phát triển cũng là lúc nền Nông nghiệp sơ khai bắt đầu trong nền văn hóa Hòa Bình cách nay khoảng 10.000 năm. Trước đó, con người chỉ biết di chuyển từ nơi này đến chỗ khác và sống lây lất để kiếm ăn giống như loài thú, nhưng khôn ngoan hơn! Đến khi họ biết sống thành bầy, nhóm, các Bộ lạc trồng lúa xuất hiện trên đất Việt cổ và Đông Nam Á độ 5.000-6.000 năm, họ vẫn còn thay đổi nơi cư trú với đời sống du canh, nhưng mức độ ít hơn. Khi mực nước biển rút đi, người Việt cổ di chuyển xuống nơi thấp hơn để sinh sống và hoạt động nông nghiệp tại các vùng đồi, đất cao, đồng bằng, đầm nước hay ven sông, biển…

1- Quản lý nông nghiệp qua các Triều đại quân chủ

2- Tổ chức quản lý nông nghiệp thời Pháp Thuộc (1884-1954)

3- Tổ chức quản lý nông nghiệp từ 1954- 2015

3.a. Thời kỳ 1954-1975:

3.b. Thời kỳ 1976-2015 (2):

4- Tổ Chức Nghiên Cứu và Đào Tạo Chuyên Viên Nông Nghiệp: (Sau 1975, Viện được đổi tên 3 lần với cơ sở tân tạo)

4.2. Các trường Nông, Lâm và Súc

4.3. Lịch sử và tiến trình phát triển Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn

© Tiến Sĩ Trần Văn Đạt

Tài Liệu Tham Khảo:

Trần Văn Đạt. 2010. Lịch sử trồng lúa Việt Nam. NXB 5 stars Printing Company, 489 trang.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2015. 70 năm nông nghiệp Việt Nam. NXB Lao động, 607 trang.
Dương Quãng Hàm. 1941. Việc canh tân, Nguyễn Trường Tộ và chương trình cải cách của ông. Việt Nam Văn Học Yếu Sử. Institute de l’Asie Sud-Est, XIV: 346-354.

Đọc tiếp @ TẠI ĐÂY

Sơ Lược Lịch Sử Trồng Lúa Việt Nam

© Trần Văn Đạt, Ph.D.

Nguồn: Cựu HS Tống Phước Hiệp Vĩnh Long (18/09/2019)

cay-lua-vn

Cây lúa Vietnam © TPHVL

Năm 2017, thế giới có 163 nước trồng lúa và sản xuất khoảng 769,7 triệu tấn thóc trên 167,2 triệu ha (FAOSTAT, 2017). Đa số nông dân là thành phần nghèo, họ sản xuất lúa chủ yếu cho tiêu thụ gia đình và hy vọng số lúa còn lại bán ra thị trường để kiếm thêm ngân khoản cho các chi tiêu khác. Lúa gạo là thức ăn căn bản của 36 quốc gia và cung cấp từ 20 đến 70% nguồn năng lượng quan trọng mỗi ngày cho 4 tỷ dân thế giới, đặc biệt tại nhiều nước châu Á…

…Tóm lại, với cách nhìn tổng thể những cột móc thời gian đáng ghi nhớ về tiến trình lịch sử trồng lúa ở Việt Nam có thể được tóm lược từ thời nguyên thủy đến hiện đại như sau:

1. Khoảng 11 000 năm trước: Cuộc Cách Mạng Đá Mới bắt đầu.

2. Khoảng 10 000 năm trước: Nền nông nghiệp sơ khai ra đời. Cư dân còn sống trong những mái đá, hang động.

3. Khoảng 8 000-7 000 năm trước: Thuần hóa cây lúa hoang song song với cây ăn trái và cây củ đậu trong nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn.

4. Khoảng 7 000-5 000 năm trước: Trồng lúa rẫy chiếm ưu thế so với lúa nước và các bộ lạc trồng lúa xuất hiện ở Việt Nam và Đông Nam Á với phát hiện rìu đá Bắc Sơn (Bùi Thiết, 2000; Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).

5. 4 000-3 000 năm trước (thời lúa nước sơ kỳ): Cư dân chú trọng khai thác lúa nước nhiều hơn do sản xuất nhiều thóc và mực nước biển bắt đầu thoái dần, trong khi một số nơi còn trồng lúa rẫy du canh truyền thống trong nền văn hóa Phùng Nguyên (thời đại Hùng Vương), Cầu Sắt-Suối Linh Nam Bộ, Đồng Đậu và Gò Mun (di vật khảo cổ, Viện Khảo Cổ Học, 1999).

6. 3 000-2 700 năm trước (Bắt đầu thời lúa nước hậu kỳ): Cư dân cổ biết làm lúa 2 vụ, cày ruộng, gieo hạt, cấy lúa nếp theo thủy triều lên xuống với hệ canh tác cố định (Thủy Kinh Chú, Lĩnh Nam Chích Quái).

7. 3 000-2 500 năm trước: Dùng cày, cuốc, rìu bằng đồng trong các hoạt động nông nghiệp (di vật khảo cổ, Viện Khảo Cổ Học, 1999).

8. 2 500-2 100 năm trước: Dùng trâu bò để kéo, đánh bùn (di vật khảo cổ, Viện Khảo Cổ Học, 1999).

Bắt đầu đắp đê đập để chống lũ lụt (Phạm Văn Sơn, 1960; Bùi Thiết, 2.000), trồng lúa nước cổ truyền trong nền văn hóa Đông Sơn.

9. 2 200-1 800 năm trước hoặc sớm hơn: Dùng lưỡi cày bằng sắt (Phạm Văn Sơn, 1960; Bùi Huy Đáp, 1980 và 1999) nông nghiệp lúa tăng gia sản xuất, đồng thời làm dễ dàng công cuộc khai khẩn các vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Trồng 2 vụ lúa; lúa Chiêm (+lúa sớm) và lúa Mùa (Di vật chí).

10. 930-1 127 năm trước: biết dùng bừa trục (Chang, 1985).

11. Khoảng 1 600 năm trước: Trồng lúa tẻ nhiều hơn lúa nếp vì năng suất cao và cho cơm nhiều gấp đôi (Sách Quảng Đông Tân Ngữ theo Bùi Huy Đáp, 1999).

12. 1886: Nghiên cứu nông nghiệp đầu tiên tại Việt Nam (Dumont, 1995).

13. 1909: Tuyển chọn giống lúa để trồng (Carle, 1927).

14. 1913: Thành lập Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa đầu tiên ở Việt Nam tại Cần Thơ (Trần Văn Hữu, 1927).

15. 1917: Cuộc lai tạo giống lúa đầu tiên giữa giống lúa Tàu hương x Carolina (Carle, 1927).

16. 1968: Cuộc Cách Mạng Xanh bắt đầu xảy ra ở Việt Nam (Trần Văn Đạt, 2002) và kéo dài đến cuối thập niên 2000.

17. 1988: Thời kỳ Đổi Mới kinh tế bắt đầu.

18. 2013: Tái cơ cấu nông nghiệp lúa để cải thiện nông thôn và tăng thu nhập nông dân…

Đọc tiếp @ TẠI ĐÂY

Gạo Nàng Thơm Chợ Đào

© Phạm Xuân Phương @ sites.google.com

cho-dao-LA

Vùng trồng lúa Nàng Thơm Chợ Đào Long An

Từ thế kỷ 19, dưới thời Minh Mạng, gạo Nàng Thơm chợ Đào đã được xếp vào danh mục những đặc sản phương Nam để tiến vua. “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai”. Chợ Đào là một chợ nhỏ nằm bên con kênh đào ăn thông với kênh xóm Bồ chảy qua xã Long Mỹ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Ở Long An, riêng loại lúa có tên “Nàng” kể cũng đến hàng chục: Nàng Tri, Nàng Rừng, Nàng Chò, Nàng Quất, Nàng Co, Nàng Minh, Nàng Hương, Nàng Rẫy, Nàng Sóc… Nhưng không có “Nàng” nào vượt nổi “Nàng Thơm” về mặt chất lượng…

Đọc tiếp @ TẠI ĐÂY

IRRI Kỷ niệm 50 năm IR8

© Gene Hettel @ Rice Today (25/10/2016)

irri-50-yearsIRRI 50 years.

Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI (The International Rice Research Institute) là một tổ chức phi chính phủ được thành lập vào ngày 09 tháng 12 năm 1959 bởi sự hổ trợ của Tập đoàn Ford và Quỷ Rockefeller, sau khi xây dựng cơ sở vật chất và chuẩn bị nhân sự, IRRI chính thức hoạt động từ năm 1960.Trụ sở và trang trại của IRRI rộng 252 ha, nằm trong khuôn viên trang trại của trường Đại học Philippines, tọa lạc tại vùng ngoại ô Thành phố Los Baños thuộc tỉnh Laguna của Philippines, cách thủ đô Manilia khoảng 60 km về phía Nam…

IRRI đang quan sát và kỷ niệm 50 năm phát hành IR8 (2016), giống lúa bán lùn đầu tiên cuối cùng sẽ thay đổi bộ mặt nông nghiệp trên khắp châu Á, Mỹ Latinh và các nơi khác… Một trong những động lực đằng sau việc thành lập viện, tôi tự hào nói rằng, là cựu chủ tịch vĩ đại của Quỹ Rockefeller, người có tầm nhìn, thiên tài đã làm rất nhiều để giúp đỡ trong công việc này – Dean Rusk. Giám đốc của viện hôm nay là một người đàn ông New Hampshire, người vừa nói chuyện với chúng tôi, Tiến sĩ Robert Chandler. Tuy nhiên, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp bao gồm các nhà khoa học thuộc bảy quốc tịch; hai phần ba trong số họ là người châu Á… (Mr. Hettel is an IRRI consultant based in the Philippines)

International Rice Research Institute

The International Rice Research Institute (IRRI) is the world’s premier research organization dedicated to reducing poverty and hunger through rice science; improving the health and welfare of rice farmers and consumers; and protecting the rice-growing environment for future generations. IRRI is an independent, nonprofit, research and educational institute, founded in 1960 by the Ford and Rockefeller foundations with support from the Philippine government. The institute, headquartered in Los Baños, Philippines, has offices in 17 rice-growing countries in Asia and Africa, and more than 1,000 staff…

– Making our science more meaningful

Achieving food security: Food security is no longer just about combating hunger. In its truest sense, food security is only achieved when rice growing countries are also producing nutritious and high-quality rice to satisfy the rise in demand and nutritional needs of rice-consuming populations…

Đọc thêm @ TẠI ĐÂY

Tổ Chức Lương Nông Thế Giới

© Kỹ sư Hồ Đình Hải © sites.google.com

irri-50-years

Food and Agriculture Organization (FAO)

FAO được thành lập ngày 16/10/1945 tại Hội nghị Quebec (Canada). Kể từ năm 1981, thế giới đã chọn ngày 16/10 làm Ngày Lương thực Thế giới. FAO là tổ chức chuyên môn của tổ chức Liên hợp quốc (UN).

Trụ sở của FAO đặt tại Rôm, Ý. (Trang web chính thức: fao.org/)

Ngân sách và Thành viên: FAO là tổ chức liên chính phủ. Hiện nay FAO có 183 nước thành viên. 

Ngân sách hoạt động của FAO lấy từ hai nguồn:

– Một là nguồn ngân sách thường xuyên (regular budget) do các nước thành viên của FAO đóng góp.

– Hai là nguồn từ Chương trình hỗ trợ tài chính được cấp chủ yếu từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và Quỹ Uỷ thác (Trust Fund) của các ngân hàng hoặc của một số nước tài trợ.

For more @ https://sites.google.com

Vài nét về giáo sư Phạm Hoàng Hộ và tác phẩm Cây cỏ Việt Nam

Nguồn: © Thư Viện Huệ Quang Blog (Reviewed on 05/24)

Trong lĩnh vực y học cổ truyền Việt Nam, đặc biệt là việc nghiên cứu về cây thuốc, chúng ta không thể không kể đến giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” của ông. Có thể nói, cố giáo sư là người đầu tiên hoàn thành công trình nghiên cứu về cây cỏ ở Việt Nam, đây là công trình có tầm cỡ khoa học lớn trong nước và trên thế giới. Trải qua gần 60 năm, đến nay, kiến thức mà bộ sách mang lại vẫn giữ vai trò rất quan trọng, được ví như là quyển cẩm nang trong khoa học nghiên cứu, nhất là ngành dược.

Bộ Cây cỏ Việt Nam

Bộ Cây cỏ Việt Nam

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ sinh năm 1929 tại An Bình, Cần Thơ. Thuở nhỏ, ông theo học tiểu học ở các trường Bassac, Nam Hưng và College de Cần Thơ. Năm 1946, ông sang Pháp tiếp tục bậc trung học lấy bằng Tú Tài I và II. Sau đó, ông tiếp tục theo học ở Đại học Sorbonne Paris, đậu bằng Cử nhân Khoa học (1953) và bằng Thạc sĩ về Khoa học thiên nhiên (1956). Năm 1957, ông về nước và được bổ nhiệm vào chức vụ Giám đốc Hải học Viện Nha Trang (1957-1962). Trong thời gian làm việc ở đây, ông đã thực hiện công trình nghiên cứu về rong biển Việt Nam.

Từ năm 1962-1963, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Khoa Trưởng trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, GS. Phạm Hoàng Hộ trở về giảng dạy tại Viện Đại học Sài Gòn.

Phạm Hoàng Hộ là người đã kiên trì vận động thành lập Viện Đại học Cần Thơ từ rất sớm và đến ngày 1.3.1966 thì cuộc họp trù bị cho việc thành lập được diễn ra tại tỉnh Phong Dinh. Ngày 8.3.1966, Viện Đại học Cần Thơ được thành lập, GS. Phạm Hoàng Hộ trở thành Viện trưởng đầu tiên của trường Đại học Cần Thơ.

Năm 1970, GS. Phạm Hoàng Hộ về Sài Gòn và tiếp tục công trình giảng dạy và nghiên cứu thực vật đến năm 1984. Sau năm 1984, GS. Phạm Hoàng Hộ sang Pháp và từ đó ông sang Canada sinh sống. Tại đây ông hoàn tất công trình nghiên cứu cây cỏ Việt Nam của mình. Ngày 29 tháng giêng năm 2017, GS. Phạm Hoàng Hộ qua đời tại Montréal, Canada, hưởng thọ 89 tuổi.

Trong cuộc đời nghiên cứu khoa học của mình, GS. Phạm Hoàng Hộ đã cho ra đời nhiều công trình quý giá về thực vật học Việt Nam như: Cây cỏ miền Nam Việt Nam (1960), Sinh học Thực vật (1964, 1966), Tảo học (1967), Hiển hoa bí tử (1968), Rong biển Việt Nam (1969), Thực vật ở đảo Phú Quốc (1985), Cây cỏ Việt Nam (1999), Cây có vị thuốc ở Việt Nam (2006),… Trong đó, có thể nói, tác phẩm tâm huyết nhất trong cuộc đời nghiên cứu khoa học của giáo sư chính là “Cây cỏ Việt Nam…”

Đọc tiếp @ TẠI ĐÂY

Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân ( 1925-1986)

Nguồn: © luatkhoasanjose.com (11/2010)

Giáo Sư Nguyễn Duy Xuân:

● Tùy viên báo chí Phủ Thủ Tướng Nội các Nguyễn ngọc Thơ,kiêm Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã.

● Tổng Ủy Trưởng Phủ Tổng Ủy Hợp Tác Xã tức Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp.

● Tổng Trưởng Kinh Tế Nội các Thủ Tướng Nguyễn văn Lộc.

● Cố vấn Kinh tế của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu.

● Tổng Trưởng Giáo Dục Nội các Thủ Tướng Nguyễn bá Cẩn.

● Viện Trưởng Viện Đại học Cần Thơ ( 1972-1975)

Trong thời gian làm việc ở Saìgòn, ngoài các chức vụ Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xả, Tổng Ùy Trưởng Tổng Uỷ Nông Nghiệp, Tổng Trưởng Kinh Tế và Cố Vấn Kinh Tế của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, GS Nguyễn duy Xuân còn giảng dạy tại các Trường Đại học Luật khoa và Quốc Gia Hành Chánh

Đọc tiếp @ TẠI ĐÂY

For more @ Luật Khoa San Jose


Viện Đại Học Đà Lạt Việt Nam

Source @ Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt Việt Nam Tự Do

Văn Kiện Pháp Lý Của Viện Đại Học Đà Lạt

Viện Đại Học Dalat  1957
Viện Đại Học Dalat 1957

Viện Đại Học Dalat (VĐD) là một tổ chức tư nhân thuộc quyền sở hữu của Hội Đại Học Dalat (HĐĐ) mà hội viên là các Đức Cha cai quản các giáo phận từ vĩ tuyến 17 trở xuống.

HĐĐ được phép hoạt động do Nghị Định số 67/BNV/NA/P5 ngày 8-8-1957. Hai năm sau, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa ký Sắc lệnh số 232/NV ngày 9-9-1959 công nhận HĐĐ là một tổ chức pháp nhân và là một hội có tính cách công ích.

Bằng Sắc lệnh số 190/GD ký ngày 28-8-1961, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa ban quyền cho VĐĐ do HĐĐ thành lập năm 1957 được phép cấp phát các văn bằng bậc đại học. Thi hành sắc lệnh trên đây, Bộ Giáo Dục ra Nghị Định số 1206/GD/PC/NĐ ngày 4-9-1961 ấn định việc giảng dạy và tổ chức thi cử hằng năm để chính thức công nhận quyền của VĐĐ được cấp phát các văn bằng bậc đại học một cách thực thụ.

Ngày 13-8-1964, bằng Nghị Định số 1433/GD/PC/NĐ, Bộ Giáo Dục cho phép VĐĐ được mở thêm một phân khoa mang tên là Trường Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp. Ngày 18-1-1965, bằng Nghị Định số 72/GD/HV/NĐ, Bộ Giáo Dục chấp thuận cho Trường Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp được cải danh thành Trường Chánh Trị Kinh Doanh (TCK).

Ghi chú: TCK là tên tắt của Trường Chánh Trị Kinh Doanh, chứ không phải Trường Chính Trị Kinh Doanh.

© GS Trần Long

Dai hoc Dalat
Dai hoc Dalat, Photo @ wikipedia


Viện Đại Học Hòa Hảo

Source @ Viện Đại Học Hòa Hảo

Một thực hiện đáng kể khác là Viện Đại Học Hòa Hảo thành lập năm 1970, tại Long Xuyên, do sáng kiến và nỗ lực vận động thực hiện của ông Lê Phước Sang, một thanh niên tiến bộ Phật Giáo Hòa Hảo. Trong thời gian du học tại Hoa Kỳ (Trường Cao học về Bang giao Quốc tế — University of Pittsburg Graduate School of Public and International Affairs) ông nhận định mối liên hệ nhân quả giữa trình độ giáo dục của một quốc gia với trình độ phát triển của quốc gia đó, cho nên nãy ra ý định thiết lập Viện Đại Học Hoà Hảo để giúp khối nông dân miền Tây nâng cao trình độ, thoát ra khỏi tình trạng giáo dục thường xảy ra trong các xã hội chậm tiến: chỉ có thiểu số thị dân được cơ hội thăng tiến trong khi đại khối nông dân trì trệ trong trình độ giáo dục hậu tiến.

Đó cũng là thực trạng xã hội Việt Nam. Hệ thống giáo dục phổ thông cấp trung học được phát triển, từ tình trạng giới hạn ở tỉnh lÿ đã lan rộng xuống các quận lÿ trong thập niên 1960. Nhưng hệ thống đại học chưa phát triển đủ để đáp ứng nhu cầu của sự gia tăng sĩ số và của mục tiêu nâng cao trình độ kiến thức dân chúng trong một quốc gia đang phát triển ở cuối thế kỷ 20. Lúc đó các đại học tập trung ở Sàigòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ. Cố nhiên người thanh niên Phật Giáo Hòa Hảo có quyền đến học ở bất cứ đại học nào, nhưng sự hiện diện một trường đại học Hòa Hảo tất nhiên có tác dụng kích thích đặc biệt cho lớp trẻ tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, số tín đồ bước vào đại học sẽ gia tăng, số cán bộ được đào tạo sẽ tăng gia, và trình độ kiến thức nói chung của khối nông dân này sẽ tăng lên, để sau một thời gian nào đó, sẽ bắt kịp mức tiến bộ chung của các tầng lớp dân chúng khác trong xã hội.

Cứ nhìn vào hệ thống giáo dục Trung học, Đại học, hệ thống Tiểu chủng viện, Đại chủng viện của tổ chức Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam, ta thấy rằng giáo dục đã đào tạo cho tôn giáo này một số cán bộ có trình độ cao hơn cán bộ các tôn giáo khác, và nhiều hơn cả về số lượng. Giáo dục cấp đại học cũng còn là một phương tiện có khả năng đưa tổ chức Phật Giáo Hòa Hảo từ bình diện địa phương lên bình diện quốc gia và quốc tế, như quan niệm của ông Lê Phước Sang: “Chiếc phản lực cơ Phật Giáo Hoà Hảo chưa hề có dịp cất cánh, có thể một ngày nào đó cất cánh bay lên không gian, phát huy khả năng và tiềm lực…”
Mục đích của Viện Đại Học Hòa Hảo được ghi nhận như sau:

1. Đào tạo chuyên viên và cán bộ lãnh đạo các ngành thiết yếu để góp phần xây dựng phát triển miền Tây, phát huy tiềm năng phục vụ quốc gia và xã hội của khối nông dân Phật Giáo Hoà Hảo.

2. Làm cho khối chuyên viên cán bộ do Viện Đại Học Hoà Hảo Sản xuất được thấm nhuần tinh thần yêu nước và trách nhiệm phục vụ, xuyên qua việc giảng dạy giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo như một môn học bắt buộc.

3. Làm cho khối chuyên viên cán bộ do Viện Đại Học Hòa Hảo Sản xuất có khả năng nói và viết ngoại ngữ để có thể hấp thụ các kiến thức của nền văn minh Tây Phương, và có căn bản sinh ngữ để tiến lên những bình diện kiến thức cao hơn sau khi ra trường. Vì thế môn học ngoại ngữ được đặc biệt chú ý, học rất nhiều giờ, và là một môn học bắt buộc, sinh viên không đạt đủ điểm tối thiểu không được tốt nghiệp.

Theo các mục đích nêu trên, Viện Đại Học Hòa Hảo nhằm đạo tào lớp chuyên viên và cán bộ lãnh đạo, có kiến thức, nhưng phải có thêm đạo đức và tinh thần yêu nước. Ngoại ngữ được xem là một nấc thang để lớp người này thâu nhận thêm kiến thức văn minh tiến bộ, hòa hợp với văn minh đạo học truyền thống để xây dựng một xã hội Việt Nam tiến bộ tự do nhưng công bằng nhân đạo theo chủ hướng giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo.

Viện Đại Học Hòa Hảo, ngoài các mục tiêu thông thường của các cơ sở giáo dục cao cấp, còn có mục tiêu đặc thù là thể hiện giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo trong sự giáo dục con người, đào tạo mẫu người mới có kiến thức, nhưng phải có thêm đạo đức.

Khai giảng niên khóa đầu tiên vào giữa năm 1970 trong một trường sở tạm là trung tâm sinh hoạt cộng đồng tỉnh An Giang, Viện Đại Học Hòa Hảo sau dời về cơ sở quy mô trên mé sông Hậu Giang, gần cầu Bắc Vàm Cống tỉnh Long Xuyên, được kiến tạo trong thời gian kỷ lục với nỗ lực tự nguyện của Giáo Hội và tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Hoa Kỳ có giúp đỡ bằng cách cho xáng múc và thổi đất từ lòng sông lên làm nền xây cất khuôn viên Đại Học.

Chương trình học gồm có:

— Phân khoa Thương mại Ngân hàng
— Phân khoa Khoa học Quản trị
— Phân khoa Giao dịch và Bang giao Quốc tế
— Phân khoa Nông nghiệp
— Phân khoa Văn khoa và Sư phạm
— Trung tâm Sinh ngữ
— Phân khoa Đông y

Ban giảng huấn gồm các giáo sư đại học do Viện Đại Học Hòa Hảo mời và một số giáo sư của hai viện Đại Học Saigon, Cần Thơ. Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo bảo trợ Viện Đại Học này, ngoài ra còn có nhiều nhân vật có vị thế trong bộ máy chánh quyền lúc đó. Tại các quốc gia Hoa Kỳ, Pháp, Nhựt, Trung Hoa Dân Quốc, Đại Hàn, Tây Đức, có các chi bộ bảo trợ Viện Đại Học Hòa Hảo, tạo thành tiềm lực phát triển của Viện Đại Học này.

Tháng 3-1975, lễ phát bằng cử nhân đầu tiên của Viện Đại Học Hòa Hảo được cử hành, với hơn 500 sinh viên tốt nghiệp ở mọi phân khoa. Số sinh viên tốt nghiệp này được xem là các cán bộ đầu tiên cung cấp bởi Viện Đại học Hòa Hảo cho guồng máy sinh hoạt công quyền và khu vực tư nhân các ngành, đặc biệt tại các tỉnh miền Tây. (*)


Viện Đại Học Cao Đài

Source @ Viện Đại Học Cao Đài


A- Lịch sử:

    1. Tổng quát về Viện Đại Học Cao Đài

Từ năm 1971 Viện Đại Học Cao Đài (tạm đặt trường sở tại nhà Hội Vạn Linh) đã lập đầy đủ để xin khai giảng. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trù trừ không cấp giấy phép vì người đứng tên Viện trưởng là Tiến sĩ Nguyễn Văn Lộc, Bảo Học Quân HTĐ vốn là cựu Thủ tướng đối nghịch.

Việc tuyển sinh phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Mãi đến ngày 24/11/1971 Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Cao Đài mới được Bộ Giáo Dục cấp giấy phép số 7999/GD/VP đề ngày 29/9/1971 bổ túc giấy phép số 9335/GD cấp ngày 24/11/1971 mà vị quyền viện trưởng chưa có bằng cử nhân, nhằm mua chuộc cử tri theo Đạo Cao Đài trong kỳ bầu cử Tổng thống vào ngày 03/10/1971.

Vị Thời Quân Khai Đạo, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị đã trấn tỉnh như sau, nhân ngày bác sĩ Lê Văn Hoạch, Bảo Sanh Quân HTĐ nhận chức viện trưởng :

“ Suốt gần hai niên khoá 1971 – 1972 và 1972-1973 với tư cách quyền viện trưởng tôi xin xác nhận thành quả tốt đẹp của viện, một phần lớn công do luật sư Nguyễn Văn Lộc, Bảo Học Quân, nhị vị khoa trưởng là tiến sĩ Lê Trọng Vinh và kỹ sư Đoàn Minh Quang đảm nhiệm điều hành giảng huấn ….

Song song với việc điều hành viện. Hội Đồng Quản Trị chúng tôi đặt nặng trọng tâm xúc tiến công tác xây cất viện trên phần đất 7 mẫu do cố Hộ Pháp đã chỉ định tại Chợ Long Hoa. Hội Đồng Quản Trị bằng mọi cách phải hoàn thành việc xây cất khu C để đưa một số sinh viên về học trong niên khoá 1973-1974. Với ngân khoản 400.000.000 dự trù xây cất Viện đại học Cao Đài, Hội Đồng Quản Trị tin tưởng vào .sự bảo trợ của Hội Thánh, sự yểm trợ của chính quyền và lòng hảo tâm của chư tín hữu Cao Đài trên toàn quốc, nhất định Viện Đại Học Cao Đài sẽ được hoàn thành .

2. Việc xây cất Viện Đại Học Cao Đài

Khu đất có diện tích 7 mẫu 82 sào, khu xây viện chiếm 19.500 mét vuông, cửa chánh quay ra đường Ca Bảo Đạo, cửa phụ ở đường Phạm Ngọc Trấn. Khởi công xây cất ngày 9-1-Nhâm Tý (dl 23-2-1972).

Để kịp khai giảng năm học 1971-1972, Hội Thánh quyết định thiết kế nhà Hội Vạn Linh tạm làm Viện Đại Học Cao Đài

Ngày 30-9-1971, ông Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục lên Tòa Thánh Tây Ninh trao nghị định thành lập Viện Đại Học Cao Đài đủ tính chất pháp lý. Ông Tổng Trưởng nói rõ về việc thành lập trong giai đoạn đầu chỉ có 2 phân khoa : Nông Lâm Mục và Thần Học Cao Đài Giáo.

Ông Tổng Trưởng trao cho Hội Thánh giấy phép số 7999/GD/VP ngày 29-9-1971 của Bộ Giáo Dục, sau lập thêm phân khoa sư phạm gồm 2 ngành : Văn khoa và khoa học. Giấy phép bổ túc số 9335 /GD ngày 24-11-1971.

3. Thể lệ và học trình các phân khoa

I/ NHẬP HỌC :

1) Mỗi năm Viện sẽ tổ chức vào đầu niên khoá một kỳ thi tuyển để chọn các sinh viên nhập học năm thứ I các Phân khoa của Viện.

Kỳ thi tuyển đầu tiên được tổ chức tại Đạo Đức Học Đường (Toà Thánh-Tây Ninh) vào ngày 20-12-1971

2) Ứng viên phải hội đủ các điều kiện sau :

– Có bằng Tú tài II, hoặc văn bằng tương đương.

– Hợp lệ tình trạng quân dịch.

3) Sau khi có kết quả kỳ thi tuyển. Viện sẽ ấn định một thời hạn ghi danh. Chỉ có thí sinh trúng tuyển mới được ghi danh và chỉ được ghi danh trong thời gian hạn định.

Thí sinh không ghi danh coi như từ khước việc học ở Viện và sau thời hạn ghi danh, Viện sẽ không chấp nhận bất cứ sự khiếu nại nào.

4) Khi ghi danh sinh viên phải nộp đầy đủ những hồ sơ do Viện chỉ định, gồm có :

– Đơn xin ghi danh

– Bảnsao chứng chỉ Tú Tài II hoặc văn bằng tương đương có thị thực.

– Bản trích lục giấy khai sanh

– Biên nhận đóng lệ phí ghi danh

– Bốn (04) ảnh 4×6

5) Sinh viên dùng hồ sơ giả mạo, khi bị phát giác sẽ bị loại khỏi Viện và có thể bị truy bố trước Tòa án.


II/ HỌC TRÌNH CÁC PHÂN KHOA

A/ PHÂN KHOA NÔNG LÂM MỤC

1) Phân khoa Nông Lâm Mục gồm có hai cấp :

Cấp I : Học trình 2 năm : Sinh viên tốt nghiệp sẽ được cấp văn bằng Cán sự Nông Lâm Mục.

Cấp II : Học trình 4 năm : Các sinh viên có khả năng chuyên môn và có phương tiện tiếp tục thêm 2 năm, khi tốt nghiệp sẽ được cấp bằng kỹ sư Nông Lâm Mục với ghi chú ngành chuyên môn (Nông Khoa, Súc Khoa…).

a) Ở cấp I cũng như cấp II, cuối năm thứ hai và năm thứ tư, sinh viên phải đệ trình một tiểu luận, ít nhất 30 trang đánh máy về một đề tài đã được lựa chọn trước sự chấp thuận của một trong các Giáo sư đang phụ trách năm thứ 2 (hoặc năm thứ tư tuỳ trường hợp).

B/ PHÂN KHOA SƯ PHAM

1) Phân khoa sư phạm gồm 2 cấp :

Cấp I : Học trình 2 năm : Sinh viên tốt nghiệp sẽ được cấp văn bằng Cao Đẳng Sư Phạm có ghi chú ngành liên hệ và nhiệm ý lựa chọn.

Cấp II : Học trình 4 năm : Các sinh viên có khả năng chuyên môn, có phương tiện có thể tiếp tục học thêm 2 năm để lấy bằng Cử nhân Sư Phạm (Ban Văn Khoa hoặc Ban Khoa Học).

a) Ở cấp I, Viện đào tạo các Giáo sư Trung học Đệ Nhứt Cấp và ở cấp II Viện đào tạo các Giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp

Chính học trình của Viện Đại Học Cao Đài là một sự mới lạ trong nền Đại Học Cao Đài là một sự mới lạ trong nền Đại Học Việt Nam vì chương trình học gồm có hai cấp bực.

Cấp bực thứ nhứt gồm 2 năm học đầu áp dụng tinh thần Đại Học Cộng Đồng (Private Junior College) được phát triển tại Hoa Kỳ và một số Quốc gia trên thế giới, nhằm đạo tạo cán bộ trung cấp với một chương trình Đại Học chuyên khoa ngắn hạn để có đủ kiến thức tổng quát và thực dụng về các ngành chuyên môn phù hợp với nhu cầu tại địa phương. Chương trình ngắn hạn này cũng có tác dụng đại chúng hoá nền Đại Học.

Như vậy, sau hai năm học, sinh viên tốt nghiệp có thể sử dụng được cấp bằng của mình trong các ngành liên hệ.

Tuy nhiên, Viện Đại Học Cao Đài không hạn chế chương trình học của sinh viên ngay ở cấp bực thứ nhứt, vì tiếp theo đó, sinh viên có khả năng và phương tiện còn có thể tiếp tục việc theo học ở cấp bực thứ hai theo như các Viện Đại Học thông thường của Quốc gia hay các tôn giáo bạn.

Nhưng ở cấp bực thứ hai tính cách chuyên khoa được tăng gia mạnh mẽ hơn nên sinh viên tốt nghiệp có khả năng chuyên môn tăng tiến hơn các Viện Đại Học theo lề lối phổ thông cổ điển.

III/ HỌC TẬP

1) Sinh viên theo học các Phân Khoa của Viện phải có mặt trong tất cả các giảng khoá, trừ trường hợp một số quân nhân công chức vì công vụ không thể chuyên cần được. Trường hợp này sinh viên nên lưu ý Ban Giám Đốc để được chỉ dẫn giúp đỡ về mặt học vụ.

( Giảng Khoá đầu tiên đã được khai giảng sau một buổi lễ cử hành dưới sự chủ toạ của Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức tại Viện ngày 28-12-1971)

2) Trong suốt học trình, ở mỗi cấp, sinh viên không được ở lại hơn một năm học.

3) Sinh viên vì những lý do chính đáng có thể gián đoạn việc học, nhưng chỉ được học lại với sự chấp thuận của ông Viện trưởng.

4) Thời gian tạm nghỉ học sẽ được coi như không ở lại lớp.

5) Mỗi năm nhà trường tổ chức 2 kỳ thi lên lớp :

– Kỳ I : Cho tất cả các thí sinh của Viện, có ghi tên dự thi.

– Kỳ II : Cho sinh viên thi hỏng kỳ I và những sinh viên bị bịnh hay vì lý do công vụ không dự thi khoá I

6) Chỉ những sinh viên có ghi danh và dự đủ số giờ thực tập mới được ghi danh dự thi.

7) Sinh viên được chấm đậu lên lớp đối với :

– Phân khoa Nông Lâm Mục có điểm số trung bình tổng quát là 12 điểm

– Phân khoa Sư Phạm có điểm số trung bình tổng quát là 10

Trong cả hai phân khoa, thí sinh có điểm một bài thi từ 05 trở xuống là sẽ bị điểm loại, thí sinh bị đánh rớt kỳ thi đó.

8) Thí sinh thi hỏng khoá I sẽ chỉ p hải thi lại những bài có điểm số dưới 12 đối với phân khoa Nông Lâm Mục và dưới 10 đối với Phân khoa Sư Phạm

9) Căn cứ vào kết quả kỳ thi cuối niên khoá năm thứ II (hoặc năm IV) sinh viên sẽ được xếp hạng :

10) Học phí ấn định cho niên khoá 1971-1972 là 10.000$. Các sinh viên được tuyển chọn qua kỳ thi tuyển phải thanh toán học phí cho trọn niên khoá một lần nội trong tuần lễ đầu khai giảng để làm thủ tục hồ sơ nhập học và xin hoãn dịch vì học vấn nếu có. Các thí sinh trúng tuyển không làm thủ tục nhập học và đóng tất cả học phí trong thời hạn do Viện ấn định được xem như tự ý bỏ học và mọi sự khiếu nại sẽ không được cứu xét.

11) Viện cũng chấp nhận một số bàng thính viên (auditeurs libres) là những người có hoặc không có cấp bằng Tú Tài toàn phần, nhưng có đủ khả năng cần thiết, đến tham dự các buổi giảng huấn trong các phân khoa của Viện để trau giồi thêm kiến thức riêng của mình.

Các bàng thính viên chỉ được vào giảng đường để dự thính mà thôi không được chấp nhận cho thi cử lên lớp hoặc lấy cấp bằng như các sinh viên của Viện và cũng không được cấp phát chứng chỉ gì.

12) Muốn được phép dự thính các buổi giảng huấn, các bàng thính viên phải xin ghi danh theo thể thức “bằng thính viên” và phải đóng choViện một khoản học phí là 5.000$ mỗi niên khoá.


IV/ QUYỀN LỢI.

1) Sinh viên của Viện Đại Học Cao Đài sẽ được quyền :

– Sử dụng thư viện và phòng đọc sách của Thư viện trong những ngày giờ do Thư viện ấn định.

– Sinh hoạt thể thao, văn nghệ, du ngoạn do Viện tổ chức.

* Sinh viên xuất sắc :

– Trong thời gian theo học có thể được miễn giảm học phí hoặc cấp học bổng, tiền học bổng sẽ do Hội Đồng Quản Trị qui định với sự đề nghị của Khoa Trưởng liên hệ.

( Hiện tại Viện chỉ miễn học phí cho một số con em Chức sắc và Đạo hữu không có khả năng tài chính và làm công quả cho Đạo).

– Sau khi tốt nghiệp sẽ được Viện giới thiệu vào làm việc tại các cơ sở công hoặc tư hay phụ trách giảng dạy tại các trường do Hội Thánh Cao Đài tạo lập và quản trị như Trung học Lê Văn Trung, Đạo Đức Học Đường …

Viện Đại Học Cao Đài
Viện Đại Học Cao Đài, (Photo luatkhoa.org)


Viện Đại học Minh Đức

Source: © Viện Đại học Minh Đức – wikipedia

Viện Đại học Minh Đức là viện đại học tư thục ở Gia Định, hoạt động từ năm 1972 đến năm 1975 dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Viện đại học này do Giáo hội Công giáo điều hành. Năm 1975, dưới chính quyền mới, Viện Đại học Minh Đức bị giải thể.

Tên của Viện Đại học Minh Đức được rút từ câu đầu trong sách Đại Học (một trong bốn sách gọi là Tứ thư của Nho giáo): Đại học chi đạo tại minh minh đức… (大學之道在明明德…), nghĩa là: Con đường Đại học cốt ở làm sáng đức sáng.

Tôn chỉ của Viện Đại học Minh Đức là Dân tộc, Hiện đại hóa, và Thực dụng.

Viện Đại học Minh Đức do Giáo sư Triết học của Viện Đại học Sài Gòn, linh mục Dòng Đa Minh Thiên Phong Bửu Dưỡng và Hội Minh Trí xây dựng từ tháng 9 năm 1970 với năm phân khoa: Kỹ thuật canh nông, Khoa học thực dụng, Kinh tế thương mại, Triết học, và Y khoa. Đây là viện đại học tư thục đầu tiên của Việt Nam có hai phân khoa Y và Kỹ thuật, trong đó chương trình học của phân khoa Y được kết hợp cả Đông y. Đến tháng 12 năm 1972 thì trường chính thức nhận được giấy phép hoạt động dưới tên Viện Đại học Minh Đức. Trường tọa lạc ở số 6 đường Hoàng Hoa Thám, Gia Định. Năm phân khoa đại học trước được tách ra thành:

Trường Đại học Kỹ thuật Canh nông

Trường Đại học Khoa học Kỹ thuật (phân khoa Khoa học thực dụng cũ)

Trường Đại học Kinh thương: 179-181 đường Trần Quốc Toản (sau 1975 là đường 3 Tháng Hai);

Trường Đại học Nhân văn Nghệ thuật (phân khoa Triết học cũ)

Trường Đại học Y khoa: số 2 đường Trần Hoàng Quân (tức đường Nguyễn Chí Thanh sau năm 1975).


Trường Đại Học Kinh Thương Minh Đức.

Source @ Trường Đại Học Kinh Thương Minh Đức

Đại Học Kinh Thương Minh Đức
Đại Học Kinh Thương Minh Đức. Photo @ kinhthuong.net

I. LỊCH SỬ

Trường Đại Học Kinh Thương Minh Đức được thành lập từ niên khóa 1970-1971 dưới danh hiệu Phân Khoa Kinh Tế Thương Mại . Từ đầu niên khóa 1973-1974, Trường đổi tên là Trường Đại Học Kinh Thương và đặt trụ sở riêng biệt tại số 179-181 Trần Quốc Toản, Saigon 10.

Trường khởi sự với một sĩ số khiêm tốn là 175 Sinh viên Cử Nhân I. Trong bốn năm hoạt động, Trường đã phải tận lực vượt những trở ngại nội bộ cũng như hoàn cảnh, từ sự thiếu thốn phương tiện của một đại học tân lập đến ảnh hưởng của những đợt nhập ngũ liên tiếp trong các năm 1971 và 1972. Tuy nhiên, với ý chí cương quyết, tài quản trị điều hành của Trường, sự nâng đỡ tuyệt đối của Tòa Viện Trưởng và sự kiên nhẫn của tập thể Sinh viên, Đại Học Kinh Thương Minh Đức đã bước những bước tiến rất nhanh nhưng vẫn chắc chắn. Vào niên khóa 1973-1974, sĩ số Trường Kinh Thương đã lên đến 1.000 Sinh viên. Trường hãnh diện và bận rộn sửa soạn tốt nghiệp cho Khóa I Kinh Thương với 70 Sinh viên tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân vào hè 1974. Những phương pháp giảng dạy mới, những chương trình thực tập tại các Xí nghiệp công và tư, những cuộc du khảo, điều nghiên, chương trình tìm việc cho sinh viên tốt nghiệp v.v… đã đem đến những phê phán đầy khích lệ của giới chức hữu quyền, phụ huynh sinh viên và của cộng đồng đại học dành cho Đại Học Kinh Thương: “Một đại học tiến bộ và vững mạnh nhất“.

Màu xanh trời nhẹ nhàng đã trở thành quen thuộc với mọi người dưới một tên mới “Màu xanh Kinh Thương“. Cảm tình của cộng đồng dành cho sinh viên Kinh Thương cũng như niềm tin của các em vào sự dìu dắt của Trường đã đưa đến một kết luận chung là 75% Sinh viên cảm thấy “hãnh diện” hay “tự tin” khi có người biết mình là Sinh viên Minh Đức (Kết quả điều tra lấy ý kiến của toàn thể Sinh viên). Bước vào niên khóa 1974-1975, Trường Kinh Thương sẽ chứng kiến một năm phát triển nhất với các chương trình Cao Học, chương trính Cao Đẳng Chuyên Nghiệp mới, việc thiết lập Võ Đường Kinh Thương (Thái Cực Đạo), Tập San Kinh Thương, Tủ Sách Kinh Thương v.v… 


II. MỤC ĐÍCH – TÔN CHỈ – ĐƯỜNG LỐI


A. MỤC ĐÍCH

Giáo dục và Nghiên Cứu

1. Mục đích giáo dục của Trường Đại Học Kinh Thương là đào tạo một lớp chuyên viên vừa giỏi về kỹ thuật, vừa có một tinh thần phục vụ cao độ và lòng yêu nước thiết tha. Sinh viên tốt nghiệp Đại Học Kinh Thương sẽ là những con người toàn diện, vừa nắm vững chuyên môn vừa bảo đảm về đạo đức.

2. Song song với mục đích giáo dục, Trường Đại Học Kinh Thương cũng cố gắng thực hiện các công cuộc nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, doanh thương và quản trị tại Việt Nam, đồng thời tìm hiểu những diễn biến liên hệ trên địa hạt quốc tế. Kết quả các công trình nghiên cứu này sẽ được phổ biến rộng rãi để đóng góp thực sự không chỉ trong phạm vi học đường mà còn cho quảng đại quần chúng. Như vậy, nghiên cứu chính là một gạch nối giữa đại học và cộng đồng.


B. TÔN CHỈ

Tôn chỉ của Trường Đại Học Kinh Thương là tôn chỉ của Viện Đại Học Minh Đức : Dân Tộc – Hiện Đại Hóa – Thực Dụng

1. Với tôn chỉ Dân Tộc, Trường Đại Học Kinh Thương đào tạo Sinh viên trên căn bản tinh thần dân tộc với chương trình giảng dạy cũng như nghiên cứu đều hướng về các sinh hoạt và doanh thương trong khung cảnh Việt Nam.

2. Với tôn chỉ Hiện Đại Hóa, Trường Đại Học Kinh Thương nghiên cứu và phối hợp các kiến thức về phát triển Kinh Tế, phát triển Quốc Gia, các kỹ thuật quản trị tân tiến của thế giới với giá trị dân tộc và khung cảnh Việt Nam để truyền bá cho Sinh viên và cống hiến cho cộng đồng.

3. Với tôn chỉ Thực Dụng, Trường không áp dụng lối học từ chương khoa cử mà giảng dạy những vấn đề thực dụng, cần ích cho Sinh viên ra đời làm việc và đóng góp.


C. ĐƯỜNG LỐI

Đường lối giáo dục của Đại Học Kinh Thương là Hội Nhập, Thực Tế và Khai Phóng 

1. Với đường lối Hội Nhập, Trường Đại Học Kinh Thương đặt nặng đường lối giáo dục trên khía cạnh chuyên môn nhưng không tách rời chuyên môn ra khỏi bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội và chính trị quốc gia. Phương pháp xuyên khoa (Multidisciplinary Approach) là cơ hội để thực thi chủ trương hội nhập.

2. Với dường lối Thực Tế, Trường Đại Học Kinh Thương hướng dẫn Sinh viên tìm hiểu những vấn đề thực tế qua các nỗ lực quan sát, nghiên cứu, điều tra, phỏng vấn, hội luận để thâu thập dữ kiện và xử dụng các phương pháp phân tích khoa học để đi đến các kết luận, đề nghị hay biện pháp chính xác, khả thi.

3. Với dường lối Khai Phóng, Trường Đại Học Kinh Thương mở rộng cửa đón mọi ý kiến, luôn luôn thích nghi hóa để tiến bộ. Sinh viên được khuyến khích đặt vấn đề và thảo luận dưới sự hướng dẫn của Giáo sư để các Sinh viên có thể đóng góp tối đa trong việc học tập. “Tinh thần Tham dự” là phương châm để rèn luyện Sinh viên Kinh Thương trong lãnh vực học vấn cũng như sinh hoạt cộng đồng.


Viện Đại học Vạn Hạnh

Source: © Viện Đại học Vạn Hạnh – Wikipedia

Chùa Xá Lợi. Anh wikipedia
Chùa Xá Lợi wikipedia image

Chùa Xá Lợi, nơi đặt cơ sở đầu tiên của Viện Đại học Vạn Hạnh

Viện Đại học Vạn Hạnh là viện đại học tư thục ở Sài Gòn do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập vào năm 1964 dưới chính thể Việt Nam Cộng hoà. Đây là viện đại học tư thục Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1975, dưới chính quyền mới, Viện Đại học Vạn Hạnh bị giải thể. Một thành phần sau tổ chức lại thành Thiền viện Vạn Hạnh.

Theo lời của Hòa thượng Thích Thiện Tâm, Phật giáo Việt Nam bắt đấu chấn hưng từ những năm 1920. Trong những thập niên sau đó, 1930, 1940…, lúc đó chưa một vị tu sĩ hay tín đồ Phật giáo Việt Nam nào hình dung Phật giáo Việt Nam sẽ mở một viện đại học đa ngành. Những vị tôn túc và cư sĩ tiên khởi Chấn hưng Phật giáo Việt Nam chỉ mới nói tới mục tiêu giáo dục cao đẳng Phật học cho tu sĩ Phật giáo, còn giáo dục hướng ra xã hội thì chỉ nghĩ đến những trường sơ học. Ý tưởng thành lập viện đại học đa ngành Phật giáo hình thành ngay trong những vị tôn túc lãnh đạo Phật giáo Việt Nam vào cuối những năm 1950, mặc dù hệ thống giáo dục trung học và tiểu học Phật giáo còn rất sơ khai.

Trước năm 1964, Sài Gòn có trường cao đẳng Phật học với tên Phật học Đường Nam Việt thuộc chùa Ấn Quang. Sau cuộc chính biến 1963 và sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chủ trương đào tạo nhân sự và đưa Phật giáo vào cuộc sống thường nhật được Giáo hội xúc tiến qua việc xây dựng một cơ sở giáo dục bậc đại học. Với nỗ lực đó, Viện Đại học Vạn Hạnh được thành lập với hai mục tiêu: xây dựng nhà giáo dục… làm sống dậy lòng tin cho tuổi trẻ… với châm ngôn Duy Tuệ Thị Nghiệp, tức là mọi hoạt động của cơ sở giáo dục này cốt để phát triển trí tuệ. Viện đại học chọn mang tên thiền sư Vạn Hạnh, vị danh tăng Việt Nam thời nhà Lý. Một trong những người sáng lập viện đại học này là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, các ông Hồ Hữu Tường – Phó Viện trưởng, Đoàn Viết Hoạt – phụ tá Viện trưởng.

Viện Đại học Vạn Hạnh được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cấp giấy phép ngày 17 tháng Mười năm 1964, với Thượng tọa Thích Minh Châu làm viện trưởng và Thượng tọa Thích Mãn Giác làm phó viện trưởng. Sĩ số tăng dần mỗi năm.

Sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, Viện Đại học Vạn Hạnh vẫn thuộc quyền quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nhưng nhiều nhân sự bị bắt giam như Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Thích nữ Trí Hải.

Năm 1981 khi các tổ chức Phật giáo hợp nhất thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện Đại học Vạn Hạnh thuộc quyền quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Không lâu sau đó, Giáo hội chỉ còn quản lý Thiền viện Vạn Hạnh; các khoa còn lại chuyển giao cho Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thiền viện Vạn Hạnh và Thiền viện Quảng Đức hiện nay là hai cơ sở giáo dục của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại miền Nam.

Viện Đại học Vạn Hạnh nguyên thủy đặt cơ sở ở chùa Xá Lợi và chùa Pháp Hội nhưng đến năm 1966 thì chuyển sang địa điểm xây mới cất ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau năm 1975 có tên là đường Lê Văn Sĩ), Quận 3, Sài Gòn. Cũng năm đó mở Trung tâm Ngôn ngữ trực thuộc viện đại học, gồm bốn ban: Ban Anh ngữ, Ban Pháp ngữ, Ban Đức ngữ và Ban Nhật ngữ.

Niên khóa đầu tiên khai giảng vào năm 1964-1965 có hai phân khoa đại học: Phật học và Văn học & Nhân văn với 696 sinh viên ghi danh. Năm 1967 thêm phân khoa Khoa học Xã hội. Phân khoa Văn học và Khoa học nhân văn gồm có 7 Ban như: Ban Văn học Việt Nam, Ban Đông phương, Ban Triết học, Ban Tâm lý học và thực nghiệm, Ban Sử Địa, Ban Văn học Anh Mỹ và Ban Báo chí học. Phân khoa Khoa học xã hội, gồm có 5 Ban: Ban Xã hội học, Ban Chánh trị học, Ban Kinh tế học, Ban Thương mại học và Ban Nhân chủng học. Năm 1970 lại thêm phân khoa Giáo dục. Năm 1973 thì thêm phân khoa thứ năm: Khoa học Ứng dụng. Phân khoa này có cơ sở riêng tọa lạc ở Phú Nhuận, Gia Định. Số lượng sinh viên năm 1973 là 3.661 sinh viên.

Thư viện của viện đại học có hơn 25.000 đầu sách, chia thành phân bộ Phật học và Thế học. Ngoài văn tịch tiếng Việt, thư viện còn có nhiều kinh sách tiếng Bắc Phạn, Nam Phạn, Hoa, Nhật, Anh, Pháp, Đức trong đó nhiều bộ kinh Phật giáo.

Viện còn cho thành lập các câu lạc bộ trực thuộc viện như: Câu lạc bộ thiền tập, võ thuật, âm nhạc, thi ca, thư quán Vạn Hạnh, v.v… để sinh viên có cơ hội học hỏi, giao lưu, phát triển thể chất lẫn tinh thần.

Một thành tựu đáng kể là việc thành lập Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh với nhiệm vụ san định sách cổ và chuyển ngữ các ấn phẩm ngoại ngữ về Phật giáo. Một số tác phẩm giá trị được in ra như Khương Tăng Hội toàn tậpLục Độ Tập Kinh và lịch sử khởi nguyên dân tộc ta của Trí Siêu Lê Mạnh Thát; Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận do Thích Quảng Độ dịch; Tư tưởng Phật học của Thích Nữ Trí Hải; Câu chuyện triết học do Bửu Đích dịch và Thắng pháp tập yếu luận do Thích Minh Châu soạn.

Viện Đại học Vạn Hạnh còn cho xuất bản tạp chí nghiên cứu Tư tưởng, với trọng tâm là các đề tài Phật học, triết học, văn hóa, và giáo dục. Tạp chí này có mặt từ năm 1967 đến năm 1975 thì đình bản.

Theo Tiến sĩ Lê Mạnh Thát, từ năm 2001 đã có dự án tái lập Viện Đại học Vạn Hạnh. Theo dự định Viện Đại học Vạn Hạnh sẽ có 10 phân khoa đại học: Phật học, Văn khoa, Luật khoa, Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội, Kỹ thuật, Y Dược, Nông nghiệp, Kiến trúc, và Giáo dục. Sự mong muốn đó không thành.

Tính đến năm 2019 cơ sở được giấy phép hoạt động là Học viện Phật giáo Việt Nam.

  • Hồ Hữu Tường: Phó Viện trưởng Viện Đại học
  • Thích Minh Châu: Viện trưởng
  • Thích Nhất Hạnh
  • Đoàn Viết Hoạt: phụ tá Viện trưởng Viện Đại học
  • Minh Đức Hoài Trinh: giảng viên


Trường đại học cộng đồng trước năm 1975

Source: © Trường đại học cộng đồng trước năm 1975 – wikipedia

Trường Ðại Học Cộng Ðồng Ðịa Phương chỉ huấn luyện về chuyên môn và thực dụng, học trình 2 năm.

Cho tới năm 1975, VNCH có 5 trường:

– Ðại Học Cộng Ðồng Quãng Ðà
– Ðại Học Cộng Ðồng Nha Trang
– Ðại Học Cộng Ðồng Tiền Giang Mỹ Tho
– Ðại Học Cộng Ðồng Long Hồ Vĩnh Long
– Ðại Học Cộng Ðồng Ban Mê Thuột, mới có quyết định.

Trong thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị hòa bình diễn ra ở Paris, Việt Nam Cộng hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết hậu chiến, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành: trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.

Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).

Công trình nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê được sự ủng hộ của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, nhất là Bộ Giáo dục. Vì quan niệm trường đại học cộng đồng quá mới mẻ vào lúc đó, nên mô hình giáo dục này đã được phổ biến rộng rãi qua báo chí, hệ thống truyền thông, và giải thích cặn kẽ tại thủ đô Sài Gòn trong những cuộc hội thảo ở Học viện Quốc gia Hành chánh, Trường Cao đẳng Quốc phòng, Hội Việt-Mỹ, v.v…, cũng như qua những phiên triều trần tại Quốc hội và những buổi nói chuyện ở các địa phương.

Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang (1971) ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng; trường này đặt trọng tâm vào nông nghiệp. Các trường đại học cộng đồng khác gồm có: Duyên Hải ở Nha Trang đặt trọng tâm vào ngư nghiệp, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Sơ cấp Kỹ thuật Sài Gòn, tiền thân là Trường Cán sự Kỹ thuật Phú Thọ nay tách ra khỏi khối các trường kỹ sư và hưởng quy chế trường đại học cộng đồng, và Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, các trường đại học cộng đồng bị giải tán vì bị xem là xa lạ với những lý tưởng giáo dục của chế độ mới, vốn theo khuôn mẫu của Liên Xô. Các trường này còn bị coi là quá gần gũi với Hoa Kỳ.

Triết lý và khái niệm trường đại học cộng đồng

Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục nằm ngay trong lòng cộng đồng và nhằm phục vụ nhu cầu địa phương để phát triển cộng đồng về ba phương diện: văn hóa, xã hội, và kinh tế. Mô hình giáo dục này được tạo ra dựa trên quan niệm rằng giáo dục phải liên hệ với kinh tế và xã hội, để xã hội và kinh tế giúp giáo dục phát triển. Chương trình giảng dạy tại địa phương phải có sự tham gia của đại diện nhân dân để khảo sát nhu cầu của địa phương, có sự góp ý của nhân dân để chương trình học được thiết thực.

Một trường đại học cộng đồng có các tác dụng chính yếu sau:

  1. Giáo dục chuyển tiếp: Chương trình học chuyển tiếp giống hệt chương trình hai năm đầu ở các viện đại học và trường đại học khác. Sau khi hoàn thành chương trình này, sinh viên có thể ghi tên theo học lên cao hơn ở các cơ sở giáo dục đại học khác.
  2. Giáo dục chuyên nghiệp: Chương trình học chuyên nghiệp trong những ngành nghề thiết thực có liên hệ trực tiếp với nền kinh tế của cộng đồng địa phương.
  3. Giáo dục phổ thông: Chương trình học phổ thông, bắt buộc cho cả sinh viên chuyển tiếp lẫn sinh viên thực nghiệp, cung cấp giáo dục tổng quát và mang tính cách toàn diện.
  4. Giáo dục bổ túc: Chương trình học bổ túc dành cho những sinh viên ở ngưỡng cửa đại học nhưng còn thiếu căn bản, và đặc biệt cho những quân nhân sẽ giải ngũ khi hòa bình lập lại, những người vì chiến tranh mà đã bỏ dở việc học và cần được cập nhật và bổ túc kiến thức để có thể tiếp tục học và tái hòa nhập đời sống dân sự.
  5. Giáo dục tráng niên: Những khóa học ngoài giờ làm việc dành những người đã lớn tuổi mong muốn trau dồi kiến thức hay học thêm những kiến thức chuyên môn mới.
  6. Hướng dẫn và cố vấn: Trường có ban hướng dẫn và cố vấn giúp sinh viên chọn ngành, chọn lớp, hướng dẫn học tập, và định hướng nghề nghiệp.
  7. Phụng sự cộng đồng: Trường đại học cộng đồng không chỉ là nơi để sinh viên đến học mà còn là một trung tâm cộng đồng, nơi tất các tầng lớp dân chúng trong cộng đồng có cơ hội gặp gỡ và tham gia hoạt động trong bầu không khí cởi mở và dân chủ. Trường sẽ tổ chức những buổi diễn thuyết, triển lãm, trình diễn văn nghệ, thi đấu thể thao, và những hoạt động phục vụ cộng đồng khác.

Related Subjects:


Tiến sĩ Nông học Nguyễn Viết Trương & Monto Vetiver Grass

Source: © https://tuoitre.vn

Một trong những nhà khoa học VN đóng góp vào công cuộc bảo vệ môi sinh ở Úc cũng như tại nhiều quốc gia khác là GS-TS Nguyễn Viết Trương.

GS chính là người đã dày công nghiên cứu những đặc tính của giống cỏ vetiver để sử dụng vào việc chống xâm thực và ô nhiễm.

GS Nguyễn Viết Trương du học Úc vào cuối năm 1959, tại ĐH Queensland. Năm 1968 ông đậu bằng Tiến sĩ nông học. Sau đó, TS Trương về nước, làm Khoa trưởng Khoa Nông nghiệp ĐH Cần Thơ. Sau năm 1975, ông trở lại Úc, giảng dạy tại ĐH Queensland.

GS-TS Nguyễn Viết Trương từng được Liên Hiệp Quốc tặng thưởng về công trình nghiên cứu chống xói mòn đất đai, được ghi danh trong cuốn “Danh Nhân Đông Nam Á”, từng phụ trách chương trình ứng dụng thực vật để chống xói mòn đất đai cho tiểu bang Queensland. Ông từng là đại diện của Queensland trong Hội đồng Quốc gia Úc về nghiên cứu triển khai các phương thức tái tạo cây cỏ trong vùng đất mặn.

Năm 1989, GS Nguyễn Viết Trương bắt tay vào công trình nghiên cứu cỏ vetiver. Theo GS, thì vetiver là một loại cỏ đa năng đa dụng đáng được khai thác mặc dù nó không phải là giống cỏ bản xứ của Úc. Hiện nay, GS Trương đã trở thành một chuyên gia quốc tế lỗi lạc về ứng dụng cỏ vetiver để chống xâm thực và ô nhiễm trên thế giới.

Cỏ vetiver thuộc họ Graminaea, tên khoa học Vetiveria zizanioides L.. Loài cỏ này trong những năm gần đây đã phát triển mạnh mẽ vì lợi ích to lớn của chúng là chống xói mòn do bộ rễ phát triển mạnh, thành chùm đan xen trong đất và có thể chịu được lực bằng 1/6 lần so với chịu lực của bê-tông (75 Mpa) (Mekonnen, 2000).Hơn nữa, bộ rễ của loài cỏ này ăn sâu trong đất, 3 mét sâu trong một năm đầu. Do đó, trồng loài cỏ này được xem như xây dựng một hàng rào bê tông sinh học chống lại xói mòn và bảo vệ đất đai.Ở đồng bằng sông Cửu Long, dựa vào đặc tính thực vật, có thể sử dụng cỏ vetiver vào việc phòng chống sạt lở bờ sông, đê điều… Theo Vietnam Vetiver Network

GS Nguyễn Viết Trương đã từng tư vấn cho châu Phi, Nam châu Âu, châu Mỹ, châu Á. Ngân hàng Thế Giới và tổ chức USAID của Hoa Kỳ cũng đề nghị ông sang châu Phi cố vấn cho chương trình trồng cỏ vetiver để lọc nước.

Từ năm 1989, GS Trương bắt đầu thử nghiệm cỏ vetiver cùng với một số loại cỏ khác. Trong hai năm nghiên cứu, ông thấy vetiver có những đặc tính mà cây cỏ bản xứ không có. Cỏ này có đặc điểm bộ rễ có khả năng hấp thụ cao các chất thải rắn, kim loại…

Hơn một năm, rễ của cây cỏ này có thể mọc dài 3m – 3,5m. Trong 3, 4 năm, rễ vetiver có thể đâm sâu đến 5m. Với đặc tính “bám đất” đó, rễ vetiver sẽ giúp đất không bị xói mòn. Cỏ vetiver có thể mọc trên hầu hết loại đất: đất sét, đất cát, đất phèn… Nếu trồng cỏ vetiver dọc theo bờ sông, nước lũ sẽ không thể cuốn trôi bờ đất được!

Ở Việt Nam, cỏ vetiver đang mở ra một triển vọng mới trong việc xử lý những vùng đất còn nhiễm chất độc hóa học dioxin tại nước ta. GS Nguyễn Viết Trương cũng đã từng về VN để tư vấn cho những dự án trồng cỏ vetiver tại một số khu vực ở trong nước.

GS Nguyễn Viết Trương cho biết: “Qua chương trình hợp tác quốc tế của Ngân hàng Thế giới, và một cơ quan phi chính phủ NGO, tôi có xin được một ngân khoản nho nhỏ. Tôi về đề nghị hợp tác với ĐH Cần Thơ để thực hiện chương trình trồng cỏ vetiver. Dự án này đã được xúc tiến hơn 3 năm nay, và kết quả rất là tốt”.

Một ứng dụng hữu hiệu khác là cỏ vetiver có công dụng bảo vệ kênh rạch và những bờ đê chống lũ dọc theo bờ đê An Giang. Hàng năm, lũ lụt thường làm lở đê ở An Giang, mà việc duy tu đê chống lũ lại rất tốn kém, nhờ trồng cỏ vetiver, An Giang đã tiết kiệm được khá nhiều tiền của trong việc bảo vệ đê điều.

Theo GS Nguyễn Viết Trương thì ông vừa nhận được tài liệu cho thấy, tại tỉnh An Giang, có một bờ đê dài 13,5 km. Năm nào con đê này cũng bị lở vì nước lũ. Năm ngoái, các kỹ sư trong vùng đã thử dùng vải ni-lông bọc bờ đê, nhưng nước lũ đã xé rách lớp ny-lông, bờ đê vẫn bị xói mòn.

Trong khi đó, họ thử trồng cỏ vetiver dọc theo một bờ đê khác. và bờ đê trồng cỏ vetiver đã không bị hề hấn gì. Thêm nữa, phương pháp bọc đê bằng ny-lông tốn kém tới 170.000 USD trong khi áp dụng phương pháp trồng cỏ vetiver thì chỉ mất có vài ngàn USD mà sẽ mang lại kết quả cho nhiều năm sau chứ không phải chỉ có một mùa lũ!

Thời gian qua, cùng với đoàn chuyên gia môi trường trong nước, GS Nguyễn Viết Trương – phụ trách mạng lưới cỏ vitiver khu vực châu Á – Thái Bình Dương và bà Elisabeth Caroline Maria Pinners, chuyên gia tư vấn nông nghiệp, Tổ chức VECO (Vương quốc Bỉ) đã phối hợp với Sở Tài nguyên & Môi trường Thừa Thiên-Huế và UBND huyện A Lưới đi khảo sát thực địa tại khu vực sân bay A Sò, xã Đông Sơn (huyện A Lưới), một khu vực bị nhiễm chất độc hóa học dioxin nặng nhất tại Thừa Thiên-Huế, để triển khai việc trồng thử nghiệm cỏ vetiver tại đây.

Cỏ vetiver được trồng thành công ở huyện Củ Chi, TP.HCM

Hiện cỏ vetiver cũng đang được Bộ Giao thông vận tải VN ứng dụng trồng để chống sạt lở đường Hồ Chí Minh và mới đây BQL dự án Sông Hương cũng đã trồng để chống xói lở bờ sông ở khu vực kè Xước Dũ, xã Hương Hồ, Huyện Hương Trà.

GS Nguyễn Viết Trương không chỉ hợp tác với ĐH Cần Thơ, hai năm qua, ông đã giữ vai trò tư vấn cho Ausaid, tức Cơ quan Viện trợ Hải ngoại của Úc, trong một dự án chống xói mòn do lũ lụt cũng như chống hiện tượng nước mặn xâm nhập nội đồng tại Quảng Ngãi. Ngoài ra, ông còn nỗ lực quảng bá phương pháp trồng cỏ vetiver để chống xâm thực tại một số nơi khác từ Bắc vào Nam VN.

GS Nguyễn Viết Trương cho biết, ông cũng cộng tác với ĐH Quốc gia TP.HCM tại Thủ Đức để trồng cỏ vetiver ngăn chặn xâm thực ở Trung Nguyên. Một chương trình khác là trồng cỏ vetiver chống nước lũ xói mòn trên những đồi cát ở Quảng Bình, Quảng Ngãi, Đà Nẵng… Đến nay, những dự án này đã đem lại kết quả rất tốt. Hiện ông đang xúc tiến một chương trình toàn quốc, từ Hà Nội, sông Hồng vào đến miền Nam.

Với chương trình trừ khử tạp chất trong nước thải thì GS Trương đã dùng cỏ vetiver để giúp đỡ những trại chăn nuôi heo ở Hố Nai, Đồng Nai. Trước đây, những trại chăn nuôi này xả nước thải thẳng xuống sông Sài Gòn.

GS đã khuyến cáo họ nên trồng cỏ vetiver chung quanh bờ hồ chứa nước thải, làm những chiếc bè trồng cỏ vetiver. Kết quả rất tốt, cỏ vetiver đã hút đi các tạp chất độc hại nhiễm trong nước, ngoài ra người ta còn có thể cắt cỏ vetiver cho heo ăn!Ước mơ của GS Nguyễn Viết Trương hiện nay là làm sao để có thể giúp đỡ tối đa cho các dân tộc kém may mắn trên thế giới. Tuy hiện nay ông đã nghỉ hưu, không còn làm việc cho chính phủ Úc, nhưng ông vẫn làm công việc tư vấn cho các công ty Úc và phần lớn công việc của GS đều ở ngoài nước Úc.

Trước thực trạng đời sống của người dân các nước nghèo kém may mắn, GS nói: “Tôi chỉ mong ước làm sao có thể giúp họ một cách hiệu quả nhờ phương pháp trồng cỏ vetiver. Tôi thấy, nếu những nước châm tiến có đầy đủ phương tiện và được hướng dẫn thì trồng cỏ vetiver có thể là giải pháp cho những nước ấy. Bởi vì trồng cỏ vetiver là một phương pháp hữu hiệu, rất rẻ, và có thể không cần hóa chất hay máy móc gì cả”.

Nguồn: @ tuoitre.vn, December 12, 2005


Monto Vetiver Grass (Vetiveria zizanioides)


Scientific name:
Vetiveria zizanioides (L.) ‘Monto’
Common name(s):
Monto vetiver grass
Agriculture
19. Impact yield?Planted in hedges along contour lines to reduce erosion and water run-off increasing soil moisture content and maintaining soil fertility without competing with the crop this practice is believed to increase yields (National Research Council 1993).lmh
20. Impact quality?Planted in hedges along contour lines to reduce erosion and water run-off increasing soil moisture content and maintaining soil fertility without competing with the crop this practice is believed to increase yields (National Research Council 1993).lmh
21. Affect land value?May increase value as enables more productive use of the land.lm
22. Change land use?In Fiji it was used to limit erosion so that it was practical to cultivate sugar cane on slopes (National Research Council 1993).lm
23. Increase harvest costs?Is alternative to more expensive engineering practices for erosion control and potentially a better option (National Research Council 1993).lmh
24. Disease host/vector?Is related to other crop species such as maize and sorghum but reported to be generally pest and disease free except for some fungus’ which may attack the species during the wet season. (National Research Council 1993).lmh

Fore more @ http://vro.agriculture.vic.gov.au


Vetiver Growing Information

Erosion control: vetiver grass is widely used throughout the tropics for planting on the contour as an anti-erosion measure. When planted in single lines along the contour, hedges of vetiver are found to be very effective in soil and moisture conservation. The stiff stems of the thick hedge slow down the movement of run-off water and spread it out, trapping silt behind the hedge. This allows more water to be absorbed into the soil, thus reducing run-off and erosion as well as improving crop yields.
Perfume: the aromatic roots have been used since ancient times in India. The fragrant, insect-repelling roots yield oil, which is valuable in the perfume industry. Traditionally, these roots were woven into mats, fans and fragrant screens, while the tops of the grass were used for thatch, mulch, handicraft, fodder and animal bedding.

Fore more @ http://greenharvest.com.au


Chrysopogon zizanioides

Chrysopogon zizanioides, commonly known as vetiver, is a perennial bunchgrass of the family Poaceae, native to India.

vetiver grass - wiki-image
vetiver grass – wiki-image

Source: https://en.wikipedia.org/


Chuyên viên Việt Nam tại Phi Châu

© Tiến sĩ Trần Đăng Hồng

Nguồn: http://vietsciences.free.fr

Biến cố lịch sử 30/4/1975 làm khoảng hai triệu người Việt Nam phải lìa bỏ quê hương để tìm nơi sinh sống ở xứ người. Ngoài số lực lượng quân đội và an ninh của Miền Nam ở mọi cấp bậc từ tướng tá đến binh nhì, có lẽ có tới hàng vài trăm ngàn trí thức, chuyên viên đã từng đóng góp cho sự phồn thịnh của Miền Nam trước 1975. Họ là các nhà giáo, giáo sư, thương gia, kỹ nghệ gia, kinh tế gia, bác sĩ, dược sĩ, luật sư, kiến trúc sư, kỹ sư đủ các ngành nghề, v.v.  Họ được đào tạo trong một nền giáo dục nhân bản của thời Việt Nam Cộng Hòa hay trong thời Pháp thuộc, ở trong nước hay ở các nước tiền tiến Âu, Mỹ, Nhật, Úc. Tài năng họ được xử dụng theo “chuyên”, không theo màu sắc chính trị, hay theo đặc ân của giai cấp.

Chưa có một thống kê về con số chuyên viên đã trốn thoát khỏi Việt Nam sau 1975, nhưng thiết nghĩ là một số lượng rất lớn. Một cuộc thăm dò nhỏ do chính tác giả thực hiện trong số đồng môn tốt nghiệp Kỹ sư các ngành Canh Nông, Thú Y Chăn Nuôi, Thủy Lâm của trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (sau đổi thành Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp, Viện Đại Học Nông Nghiệp, hiện nay  là Đại Học Nông Lâm), từ khóa 1 (tốt nghiệp năm 1962) cho tới khóa 5 (tốt nghiệp năm 1967), tức là những chuyên viên có thời gian đóng góp rất nhiều cho nền nông nghiệp VN, từng giữ những chức vụ then chốt từ cấp Giám Đốc ở các Nha Sở trung ương cho tới cấp Trưởng Ty ở tỉnh, v.v. trước 1975.

Chẳng hạn, khóa 3 (mà tác giả là một thành viên) tốt nghiệp năm 1964 với 43 kỹ sư, thì có 33 người ở nước ngoài (77%). Trong số 43 nguyên kỹ sư này có 3 tốt nghiệp MSc và 7 PhD không có ai ở trong nước sau 1975.

Tổng số kỹ sư của khóa 5 khi ra trường năm 1967 là 85, trong số này có 8 người quá cố (một số trước 1975), 1 người không rõ tin tức, 19 người còn trong nước, và 57 người  ra nước ngoài (75%). Khóa 5 cung cấp 8 MSc, 1 Doctorat de 3ème cycle,  và 11 PhD, thì chỉ có 1 MSc và 1 Doctorat de 3ème cycle còn ở trong nước.

Cũng tương tự như vậy, các khóa từ 1 tới 5 có 31 chuyên viên tốt nghiệp PhD, 6 Bác sĩ Thú Y, 1 MPhil và trên 30 chuyên viên có MSc. Trong số này chỉ có 2 PhD, 1 Doctorat de 3ème cycle, 1 MPhil, 4 MSc  và 1 Bác sĩ Thú Y còn lại trong nước sau 1975.

Trường Cao Đẳng NLS Sài Gòn đã đào tạo trên ngàn kỹ sư từ khóa 1 (tốt nghiệp năm 1962) đến khóa 13 (tốt nghiệp 1975), hàng vài trăm cấp MSc và cả trăm cấp PhD và Doctorat de 3ème Cycle, nhưng sau 1975 chỉ còn khoảng trên 100 kỹ sư, 3 PhD, 1 Doctorat de 3ème cycle, 1 MPhil, 4 MSc và 1 Bác sĩ Thú Y còn ở trong nước.

Về thành phần Ban Giảng huấn cơ hữu, Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp Sài Gòn niên khóa 1971-1972 có 74 thầy cô, trong số này không biết tin 14 vị, ở trong nước sau 1975 là 10 vị, và ở nước ngoài là 49 vị (83%).

Có lẽ các ngành ở các Đại Học khác cũng tương tự như vậy.

            Trong bài này, tác giả cố gắng thâu thập số chuyên viên Việt Nam có một thời làm việc “cho” hay “tại” Phi Châu. Làm việc “cho” Phi Châu là các chuyên viên làm việc chính nơi quốc gia cư trú (như Mỹ, Pháp, v.v.) nhưng có tham gia trong các chương trình phát triển Phi Châu (như làm tư vấn, consultant), soạn thảo dự án, v.v. cho Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), cơ quan Viện trợ Hoa Kỳ (USAID), v.v. và thỉnh thoảng có đi công tác ngắn hạn, vài ba tuần hay vài tháng, tại Phi Châu để lập dự án, theo dõi, đôn đốc, thẩm định (evaluation) chương trình theo nhu cầu của cơ quan tài trợ. Làm việc “tại” Phi Châu là các chuyên viên được cơ quan tài trợ gởi đến Phi Châu theo các hợp đồng (contract) dài hạn, từ một năm trở lên, để thực hiện các dự án ở địa phương, vùng, tại một quốc gia hay vài quốc gia lân cận.

            Khi đến định cư ở nước sở tại, chuyên viên nào cũng phải chọn ngành nghề thích hợp để sớm được an cư. Người may mắn có bằng cấp tốt nghiệp của nước định cư thì dễ dàng có công việc đúng chuyên môn sở học, người khác phải đi học lại ngành chuyên môn cũ (như Bác sĩ, Nha sĩ, v.v. tốt nghiệp ở VN), hay học ngành khác (ngành mới như computer, IT..), v.v. Một số khác đi làm chuyên viên “cho” hay “tại” các quốc gia trên khắp thế giới. Trong bài này tác giả chỉ đề cập đến số chuyên viên từng làm việc “cho” hay “tại” Phi Châu sau 1975.

            Phi Châu có lẽ là châu lục nghèo nhất, do khí hậu và đất đai bất lợi trong sản xuất nông nghiệp, đa số quốc gia còn trong tình trạng bộ lạc thường xuyên xung đột, giáo dục chậm tiến, không có nhiều chuyên viên chuyên môn và chuyên viên quản lý v.v., vì vậy đất nước không phát triển nhanh được. Do đó, Phi Châu được nhận nhiều dự án phát triển nhất, và đây cũng là dịp thuận lợi cho nhiều chuyên viên Việt Nam.

Tại sao các cơ quan tài trợ chọn chuyên viên Việt Nam làm cho các dự án phát triển của họ ở Phi Châu?

– Thứ 1, các chuyên viên Việt Nam được tuyển chọn đến Phi Châu là những chuyên viên tài giỏi đã được đào tạo bởi các đại học nổi tiếng trên thế giới ở chính các nước có chương trình tài trợ (như Mỹ, Âu Châu, Nhật, Úc) hay các nước trong khối tự do đồng minh (như Phi Luật Tân, Thái Lan..).

– Thứ 2, các chuyên viên Việt Nam đã từng có kinh nghiệm dồi dào, ít nhất cũng 5-10 năm, đã từng cống hiến tài năng trong việc phát triển Miền Nam phồn thịnh trước 1975.

– Thứ 3, điều kiện thích nghi xã hội, khí hậu, kinh tế, đến cả tâm lý của chuyên viên Việt Nam cũng gần gũi với điều kiện của Phi Châu hơn chuyên viên người Âu, Mỹ chính cống, nên dự án có nhiều cơ hội thành công hơn.

– Thứ 4, chuyên viên Việt Nam đều rành 2 ngôn ngữ chánh là tiếng Anh và tiếng Pháp, trong lúc chuyên viên Âu hay Mỹ chỉ biết một ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Ngôn ngữ chính ở Phi Châu hoặc tiếng Pháp, hoặc tiếng Anh. Các chương trình tài trợ phần đông là liên quốc gia, cần thông thạo cả hai ngôn ngữ. Đó là ưu thế của chuyên viên Việt Nam.

-Thứ 5, vì các đàn anh đi tiên phong trong lãnh vực phát triển Phi Châu từ thập niên 70 được các giới chức chánh phủ ở Phi Châu và các định chế tài trợ quốc tế đánh giá cao vì những kết quả cụ thể và tốt đẹp thu gặt được, và đã lưu lại những ấn tượng tốt đẹp. Vì vậy, khi duyệt xét danh sách và tiểu sử các chuyên gia ứng viên vào một dự án nào đó, chuyên gia gốc Việt Nam có chiều hướng được lựa chọn dễ dàng.

Tại sao các nước Phi Châu thích chuyên viên Việt Nam hơn?

Sau một giao kèo, thường là rất thành công với chuyên viên gốc Việt, các nước Phi Châu thường yêu cầu giữ các chuyên viên Việt Nam ở lại tiếp tục giao kèo mới, ngoài lý do chuyên môn cần thiết, còn có nhiều lý do:

            – Việt Nam có cùng một lịch sử bị Tây Phương đô hộ như họ, nên dễ đồng cảm. Đặc biệt, các quốc gia nói tiếng Pháp (Francophone) ở Phi Châu thích chuyên viên VN từng học tại Pháp, nên họ tuyển dụng chuyên viên VN như công chức của họ nhưng theo quy chế ưu đãi về lương phạn hơn công chức chuyên viên bản xứ.

– Việt Nam cũng là nước chậm tiến, họ thấu hiểu hoàn cảnh hậu quả chiến tranh do đó dễ dàng thông cảm.

            – Chuyên viên VN không tự tôn, không coi thấp đồng nghiệp bản xứ như các chuyên viên Âu Mỹ, và dễ dàng sống hòa đồng ở địa phương.

            – Chuyên viên VN chuyên cần, đầy nhiệt huyết, phục vụ đất nước họ như chính phục vụ cho đất nước mình.

Tại sao chuyên viên Việt Nam làm việc nhiều ở Phi Châu?

Sau 1975, vì nhu cầu phải ổn định gia đình vợ con ở nước định cư, trong khi chờ đợi chọn nghề nghiệp thích ứng, chuyên viên Việt Nam chọn bất cứ nơi nào trên thế giới miễn là có nhiều tiền, và nơi có an ninh tương đối (không có chiến tranh tàn khốc như ở VN). Các quốc gia nghèo ở Phi Châu được tài trợ nhiều nhất, nên chuyên viên VN vì vậy làm việc ở Phi Châu nhiều nhất. Đa số, họ đến Phi Châu một mình, vợ con vẫn ở nước định cư. Cũng có một số, dẫn vợ và con thật nhỏ theo ở Phi Châu, nhưng con cái ở tuổi đi học thì gởi bạn bè, thân nhân ở nước định cư. Họ hy vọng, sau một vài giao kèo làm việc, khi có tiền khá nhiều thì về lại nước định cư, tìm nghề nghiệp vững chắc hơn, hay kinh doanh. Mục đích chính là họ hy sinh để cho gia đình vợ con được an cư, con cái theo đuổi việc học hành cho tới thành tài ở nước định cư.

Vì vậy, trong bài này tác giả chỉ giới hạn vào số chuyên viên Việt Nam hoặc đã trốn thoát ra khỏi Việt Nam hoặc tiếp tục ở hải ngoại sau thời gian du học, tu nghiệp, hay công tác, vì biến cố 1975, và từng có thời gian làm “cho” hay “tại” Phi Châu. Dĩ nhiên, danh sách này chưa được đầy đủ, chú trọng nhiều ở số chuyên viên nông nghiệp mà tác giả có nhiều thân hữu làm việc ở Phi Châu, và chỉ tập trung ở thế hệ 1. Tác giả cũng biết ở thế hệ 2, nhiều con em cũng có đến làm việc ở Phi Châu, ngắn hạn hay dài hạn. Từ giữa thập niên 2000, cũng có một số chuyên viên VN được chính phủ VN cho phép hay gởi đến Phi Châu, nhưng không nằm trong phạm vi bài này.

Để được danh sách này, tác giả đã liên lạc với các chuyên viên (*) để được cung cấp tài liệu cá nhân.  Các vị chuyên viên khác (không có dấu *) là được các vị trên (có dấu *) cho biết là có gặp ở Phi Châu, tuy nhiên không nhớ rõ chính xác thời điểm và công việc.

DANH SÁCH CHUYÊN VIÊN (danh tánh được xếp theo thứ tự vần abc).

DR TRẦN VĨNH AN

Dạy Đại Học Nông Nghiệp ở Bamako, Mali trong thập niên 1980s.

DƯƠNG NGHIỆP BẢO* (Bernard Donge)

Nguyên Tổng Thanh Tra của ADB (Ngân hàng Phát Triển Á Châu, Asian Development Bank), đã làm việc  cho nhiều nước Phi Châu với tư cách tham vấn của Ngân Hàng Thế Giới (2000-2010): Madagascar, Benin, Morocco, Côte d’Ivoire, Senegal, Togo, Ghana, Burkina Faso. Đã nhận 3 giải thưởng của World Bank: 2 giải thưởng cá nhân (về công tác tại Phi Châu 2000 và 2006 ), và một giải thưởng đồng đội, vì đã tham dự chương trình cải tổ tài chánh công tại Việt Nam năm 2000 và 2005. Chương trình này được chọn là Dự án có nhiều ảnh hưởng nhất trong các dự án của World Bank trên toàn thế giới năm 2008.

LÂM TÔ BÔNG (quá cố)

Nguyên Tổng Giám Đốc Công Ty Bông Vải Sicovina, Giám đốc Tiểu Công nghệ Việt Nam trước 1975. Được biết Ông làm cố vấn chương trình phát triển tiểu công nghệ ở Madagascar do UNDP (United Nations Development Programme) tài trợ.

DR TRẦN VĂN CẢNH

Chuyên viên về “bịnh cây cao su” của cơ quan CIRAD Montpellier (Centre International de la Recherche Agronomique pour le Dévelopment). Ông làm ở Côte d’Ivoire khoảng 1980-1995, sau đó ở Gabon. Nhiều lần công tác ở VN do Pháp tài trợ.

FRANCIS CẦN (Ngô Huy Cần, PhD, quá cố)

Nguyên Giảng Viên trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn. Chuyên viên bảo vệ mùa màng trong vùng Ziguinchor (ở nam Senegal) trong Dự án Phát triển Nông Nghiệp ở Casamance, Senegal, từ tháng 4/1982 đến tháng 7/1986. Dự án do USAID (United States Agency for International Development) tài trợ.

NGUYỄN PHÚC CHÂN (quá cố), PhD

Kỹ Sư Chăn Nuôi (Sài Gòn), Cao học Kinh Tế (USA), PhD (USA), nguyên Chuyên Viên Nha Giáo dục Nông Nghiệp/Saigon.

Từ 1977 đến 1987, chuyên viên cố vấn nông nghiệp ở các nước Senegal, Mauritania, Chad, Zaire, do USAID và World Bank tài trợ.

NGUYỄN VĂN CHIỂU, KS Cầu cống (Pháp)

Nguyên Tổng Giám Đốc Cảng Sài Gòn thời VNCH, làm cố vấn ngành hải cảng cho Mauritania.

CAO XUÂN CHUẨN, Tiến sĩ khoa học nguyên tử (Paris).

Làm ở Algeria.

TRẦN LƯU CUNG*

Nguyên Giám Đốc Kỹ Thuật Học Vụ (1963-66), Thứ Trưởng Giáo Dục đặc trách Giáo Dục Kỹ Thuật (1966-68), Tổng Giám Đốc Giáo Dục Kỹ Thuật (1968-72), Thứ Trưởng Giáo Dục đặc trách Đại Học và Kỹ Thuật (1969-71), Phụ Tá Tổng Giám Đốc Công Ty Vecco trực thuộc Bộ Công Chánh (1972-74).

1974-1976: Chuyên viên giáo dục kỹ thuật của UNESCO tại bộ Giáo Dục Cameroon, cố vấn và giúp soạn thảo dự án giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp để nạp trình các cơ quan tài trợ World Bank, UNDP, Cộng Đồng Châu Âu và Viện Trợ Song Phương.

1976-1981: Trưởng Đoàn Chuyên Viên Quốc Tế của UNESCO tại Zaire,  phụ trách thiết lập và điều hành Học Viện Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật với sự tài trợ của World Bank và UNDP.

1981-1984: Chuyên viên Giáo Dục Kỹ Thuật tại UNESCO/Paris tham gia soạn thảo chương trình và dự án phát triển giáo dục Kỹ Thuật của các Quốc gia Cameroon, Zaire, Benin, Congo, Mali, Tunisia.

1984- 2000: Chuyên viên của Ngân Hàng Thế Giới/Washington, tham gia sọan thảo dự án cải tiến/phát triển cơ cấu tổ chức và nhân lực của khu vực công trong khuôn khổ chương trình tài trợ của Ngân Hàng Thế Giới và IMF (Structural Adjustment Program). Cơ quan liên hệ gồm Bộ Kế Hoạch, Tài Chính, Kinh Tế và  những cơ quan tự trị, cấp thủy, đường xá, thủy vận, hỏa xa, hầm mỏ, v.v. tại Zaire, Burundi, Rwanda, Madagascar, Comoros;  đăc biệt phụ trách lập và theo dõi những dự án phát triển nhân lực, dự án huấn luyện tại chức, tu nghiệp ngắn và dài hạn trong và ngoài nước với mục đích yểm trợ  chương trình  cải tổ cơ cấu, hữu hiệu hóa  các cơ quan nói trên của chính phủ, giảm bớt nhân số và thay lần chuyên viên ngoại viện.

Ngoài ra, Ông còn có những hoạt động khác như: (i) Soạn thảo dự án  phát triển cộng đồng tại Comoros; (ii) Thẩm lượng kết quả của dự án “Xóa Nghèo” (Poverty Alleviation Project) tại Sri-Lanka; và (iii) Thẩm lượng kết quả của dự án “Lao Polytechnic Institute” tại Vientiane, Laos.

VŨ VĂN CỬ*, PhD (USA)

Nguyên Giảng Viên Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (1966-1970).

1979-1980: Senegal. Chuyên viên nông nghiệp của USAID tại Senegal. Công tác chánh gồm (i) Hoàn thành chương trình thủy nông để gia tăng diện tích canh tác lúa dọc theo sông Senegal thuộc tỉnh Bakel; (ii) cải thiện canh tác sản xuất bắp và millet qua các biện pháp thủy nông; và (iii) du nhập các giống lúa, bắp, millets cao sản và có khả năng thích ứng điều kiện phong thổ địa phương (như khô hạn và gió mạnh..).

Sau 1980: chuyên viên khảo cứu Bộ Canh Nông Hoa Kỳ, kiêm GS phân khoa Nông học trường Đại Học Florida.

NGUYỄN BỈNH CƯƠNG, Kỹ sư Phú Thọ, PhD École Nationale des Arts et Métiers / Đại học Paris-Jussieu.

Được biết Ông làm Chuyên viên cho chính quyền Côte d’Ivoire.

NGUYỄN KIM CƯƠNG*

Kỹ sư Kiều Lộ (École Nationale des Ponts et Chaussées – Paris), tốt nghiệp năm 1969.

Nguyên Phó Giám Đốc Phát Triển Đầu Tư tại Quỹ Phát Triển, Ngân Hàng Quốc Gia (1972-1974), trách nhiệm thẩm định dự án đầu tư, giúp các doanh nhân thực hiện các dự án đầu tư; nguyên Tổng Giám Đốc Ngân Sách Phát Triển tại Bộ Kế Hoạch (1974-1975), trách nhiệm quản trị ngân sách đầu tư đầu tiên của VNCH (100 triệu US$); Trưởng phái đoàn thương thảo với Chính Phủ Pháp và ký kết thỏa ước Pháp-VNCH (1974) tài trợ phát triển (100 triệu FF).

1975: Định cư tại Pháp và bắt đầu công tác tại Phi Châu

1975 – 1989: Cố vấn kỹ thuật tại Tổng Nha Kiều Lộ, Cộng Hoà Zaïre cho các dự án kiều lộ của Ngân Hàng Thế Giới và Liên Hiệp Âu Châu. Cố Vấn Trưởng cho Quản Trị Viên Kỹ Thuật. Thành viên Ủy Ban Đấu Thầu của Tổng Nha Kiều Lộ. Trách nhiệm xây dựng và bảo trì toàn bộ hệ thống đường nhựa và cầu của Cộng Hòa Zaïre (2,34 triệu Km2). Công trình quan trọng nhứt là cây cầu treo ở Matadi (dài 722 thước, cầu xa lộ và thiết lộ dài nhất thế giới vào thời điểm 1980).

1989 – 1991: Chuyên viên của khối Liên Hiệp Âu Châu, Cố vấn cho Bộ Kế Hoạch Cộng Hòa Zaire với chức vụ Tổng Thư Ký Ủy ban hỗn hợp Liên Hiệp Âu Châu – Cộng Hòa Zaïre, trách nhiệm quản trị quỹ đối giá của Liên Hiệp Âu Châu nhằm tài trợ các dự án phát triển.

1992 – 2003: Chuyên gia về hạ tầng cơ sở của hãng kỹ sư tư vấn Louis Berger – văn phòng Paris, trách nhiệm vùng Phi Châu và Đông Âu. Nghiên cứu, thẩm định và thực hiện nhiều dự án phát triển hạ tầng cơ sở tại các nước Sénégal, Mali, Burkina Faso, Côte d’Ivoire, Guinée, Malawi, Ethiopie, Burundi, Algérie, Maroc, Roumanie, v.v.

2003- 2007:  Thủ trưởng cơ quan quản trị Chương trình tái thiết khẩn cấp hạ tầng cơ sở sau chiến tranh tại Cộng Hoà Congo do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ với ngân sách 1,7 tỷ US$. Trách nhiệm xây dựng lại toàn bộ hệ thống đường lộ, cầu cống, thiết lộ, đường thủy vận, hải cảng, phi cảng, hệ thống điện lực (với đập nước Inga có tiềm năng lớn nhứt thế giới) và cấp thủy của Cộng Hòa Congo.

2008 – tới nay:  Chuyên gia cố vấn Chính Phủ Maroc trong Chương trình xây dựng 15.500 cây số hương lộ. Trưởng phái bộ yểm trợ kỹ thuật cho chương trình hương lộ nhằm khai thông vận chuyển cho hơn 3 triệu dân ở nông thôn. Chương trình được hơn 10 định chế quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát Triển Phi Châu, Ngân Hàng Đầu Tư Âu Châu, Chính Phủ Pháp, Ý, Nhựt, v.v. tài trợ với ngân sách 2 tỷ US$.

CHU TAM CƯỜNG

Nguyên Phó Tổng Cục Truởng Gia Cư, được biết làm tại Gabon, Congo và nhiều nuớc Phi Châu khác.

HỒ HÁN DÂN*, Bác sĩ Thú Y.

Nguyên  Giám đốc Thảo Cầm Viên Saigòn.

2/1979 – 6/1984: Chuyên viên Khuyến Nông cho Dự án Phát triển Nông Nghiệp ở Casamance, Senegal, do USAID tài trợ.

2/1986 – 12/1990: Trưởng Dự án phát triển và thích nghi hóa các giống trâu gốc Á Châu du nhập vào Senegal, do USAID tài trợ.

NGHIÊM XUÂN ĐÀI

6/1984 – 12/1991: Chuyên viên khuyến nông/sản xuất ngũ cốc tại Congo Belge/Zaire do USAID tài trợ, trong dự án phát triễn nông nghiệp Bắc Shaba/Zaire.

GS BÙI QUANG ĐẠT*

Nguyên Giáo Sư tại Department of Economics and Business Administration, Bowie State University, MD, USA. Kể từ 1985, GS làm tư vấn cho những tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc (United Nations), Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB), Ngân Hàng Thế Giới (WB) tại nhiều quốc gia Á Châu, Nam Mỹ và Phi Châu, và là tác giả của nhiều bản phúc trình và khảo luận về vấn đề phát triển kinh tế cuả các quốc gia đang phát triển.

Tại Phi Châu, GS đã giảng dạy tại Université Nationale d’Abidjan (Côte d’Ivoire) trong cuối thập niên 1970s. GS làm tư vấn cho WB hay USAID phụ trách phát triển kinh tế, tài chánh, chính sách tiền tệ, hối đoái, thẩm định các chương trình tài trợ, vì vậy công tác thường xuyên đến Phi Châu.  Chẳng hạn chương trình phát triển kinh tế cho Madagascar, Comoros (WB, 1985-1986); thẩm định ngân sách Burundi (WB, 5-6/1988); cải tổ chính sách tiền tệ Liberia (USAID, 7-8/1988 và 11-12/1988); thẩm định chương trình phát triển nông nghiệp Niger (USAID, 1-3/1989); thẩm định cải tổ kinh tế Mali (USAID, 5-6/1989); Trưởng đoàn cố vấn kỹ thuật chương trình phát triển liên Bộ Giao Thông & Công Chánh tại Cộng Hòa Trung Phi (WB, 9/1990 – 2/1991); Trưởng đoàn/ Chuyên Viên Ngân sách, cố vấn kỹ thuật cho chương trình hóa ngân sách, kiểm soát và quản trị tài chánh của Bộ Công Lý Madagascar (USAID, 5-7/2000).

Ngoài Phi Châu, GS còn tham gia nhiều chương trình khác tại Á Châu và Nam Mỹ trong lãnh vực phát triễn kinh tế, tài chánh.

TRẦN VĂN ĐẠT*, PhD

Nguyên Chánh Sự Vụ Sở Lúa Gạo Bộ Canh Nông.

Từ 1977 đến 1980: USAID, Ouagadougou, Haute Volta:

– Công tác tư vấn thiết lập phòng Thí Nghiệm Hạt Giống cho USAID tại Ouagadougou trong hai tháng hè 7-8/1977 và huấn luyện nhân viên về các phương pháp thử nghiệm hạt giống, như độ nẩy mầm, độ thuần hạt giống, xử dụng các thiết bị đo độ ẩm, độ cứng, sức dẻo dai, xay chà, lấy mẫu giống, v.v.

– Thực hiện hai gieo kèo kỹ thuật viết về tài liệu xử dụng phòng thí nghiệm hạt giống và huấn luyện nhân viên bản xứ về công nghệ hạt giống căn bản.

Từ 1981-1982: USAID, Bamako và Gao, Mali:

– Chuyên gia lúa gạo cho dự án Lúa và Lúa Miến ở Vùng Gao, Mali: Cố vấn về sản xuất lúa gạo, soạn thảo chương trình thí nghiệm lúa và tham gia huấn luyện về lúa và hệ thống lúa-lúa miến trồng ven sông Niger trong mùa nước ngập và mùa khô.

– Cố vấn cho USAID về chương trình thí nghiệm lúa ở Mali.

Từ 1982-1984: FAO, Bobo Dioulasso, Haute Volta:

– Chuyên gia lúa gạo cho dự án FAO/UNDP về Chương Trình Thí Nghiệm Lúa ở nước Haute Volta (bây giờ Burkina Faso), tại Trung Tâm Thí Nghiệm Nông Nghiệp Farako Bâ, vùng Bobo Dioulasso, cách thủ đô Ouagadougou 350 km.

– Cố vấn chương trình lúa quốc gia và sản xuất lúa giống cung cấp cho Sở Hạt Giống Quốc Gia Mali.

Từ 1984 đến 2004: FAO, Rome, Italy, với tư cách Chuyên Gia và Chánh Chuyên Gia:

– Làm tư vấn, soạn thảo và theo dõi nhiều dự án và kế hoạch Phát triển Lúa gạo ở Châu Phi: Burkina Faso, Burundi, Chad, Ghana, Gambia, Guinea, Guinea-Bissau, Madagascar, Mali, Mozambique, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Tanzania, Zambia.

– Phát triển chương trình lúa lai ở Ai Cập.

– Tổ chức nhiều cuộc họp và huấn luyện cấp vùng về lúa gạo cho miền Đông Phi và Tây Phi.

– Tham gia tư vấn trong các cuộc họp về Khảo cứu lúa gạo của IITA (International Institut of Tropical Agriculture, Viện nghiên cứu quốc tế nông nghiệp nhiệt đới) và WARDA (West Africa Rice Development Association, nay đổi là Africa Rice Center  Trung tâm Lúa Gạo Phi Châu) ở Châu Phi.

Ngoài Phi Châu, còn công tác rất nhiều nước khác ở Mỹ Châu và Á Châu, trong đó có Việt Nam.

BỬU ĐÔN

Nguyên Tổng Trưởng Bộ Công Chánh, làm cố vấn cho một công ty ở Côte d’Ivoire.

NGUYỄN CÔNG ĐỨC (quá cố năm 1992),

1980-1992: Burkina Faso: chuyên viên về địa chất, giếng khoan và nước uống cho các làng mạc.

BS NGUYỄN TIẾN ĐỨC, Bác sỉ Y Khoa

Nguyên phục vụ ở Bệnh viện Vì Dân Sài Gòn. Được biết làm ở Rwanda và Somalia về Y tế công cộng, do USAID tài trợ.

CUNG HỔNG HẢI*, Kỹ sư Ecole Centrale de Paris.

Ông là một chuyên gia kinh tế, chuyên về Kế toán ngân sách quốc gia, Mô hình kinh tế, Kế hoạch phát triển, Hoạch định hệ thống ngân sách, và Thẩm định dự án. Ông làm tư vấn cho World Bank, chính phủ Pháp, hay chính phủ các quốc gia đến công tác (như Côte d’Ivoire, Gabon). Ông cũng là một chuyên gia về IT. Ông hoạt động ở 8 nước Phi Châu gồm: Côte d’Ivoire, Burkina-Faso, Cape Verde, Cameroon, Gabon, Senegal, Niger và Madagascar. Sau đây là vài ví dụ về hoạt động chánh:

Tại Côte d’Ivoire, làm tư vấn về thẩm định dự án, khoản nợ (debt review), hoạch định các chương trình phát triển, hoạch định ngân sách quốc gia; thiết lập database về ngoại thương, quản trị các khoản nợ nước ngoài.

Tại Gabon, làm tư vấn về thẩm định dự án, khoản nợ, hoạch định các chương trình phát triển, hoạch định ngân sách quốc gia.

Tại Niger: Hoạch định kế hoạch về IT.

Tại Senegal: Thiết lập Chương trình IT cho cơ quan Senegal River Authority.

Tại Madagascar: Thiết lập databases cho lảnh vực kỹ nghệ Madagascar, IT cho Ngân Hàng.

            Ngoài Phi Châu, Ông còn công tác ở Việt Nam, Guyana về huấn luyện IT, Kế toán ngân sách, mô hình kinh tế.

VƯƠNG HỮU HẢI, PhD về Pathology.

Làm việc ở Viện Khảo Cứu Nông Nghiệp tại Bamako (Mali).

VÕ THỊ HẢI*, Doctorat de 3ème Cycle về Thảo mộc bệnh học (Université de Paris VI), Di truyền và cải thiện giống cây (Université d’ORSAY).

Nguyên Giảng Viên trường Cao Đẳng NLS Sài Gòn.

1976-1977: Brazzaville, Congo. Nghiên cứu về bệnh lý học cây cà chua, do ORSTOM tài trợ.

1980-1982: Đào tạo, giảng dạy môn Bệnh Lý Thực Vật cho cấp kỹ sư ở Học Viện Kỹ Thuật Nông Nghiệp Dschang, Cameroon trong chương trình viện trợ của Pháp. 

1982-1983: Tham gia dự án cải thiện năng xuất và phẩm chất tại liên hợp kỹ nghệ nông nghiệp Société Bertin và Mansoumba của Congo Brazzaville.

1986-1995: Hàng năm công tác nghiên cứu cho Công Ty Socotra tại Côte d’Ivoire, mỗi lần tối thiểu cũng một tháng.

NGUYỄN PHƯỚC HẬU

Giảng dạy môn Thống Kê tại Côte d’Ivoire.

PHẠM NGỌC HIỆP, PhD                         

Làm nghiên cứu nông nghiệp cho Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Lúa Mì và Bắp (International Maize and Wheat Improvement Center, CYMMIT, Mexico) tại phân vùng Zimbabuwe.

ĐÀM VĂN HOÀNG, Doctorat de 3ème cycle Kinh tế Paris.

Được biết làm ở Cộng Hoà Trung Phi do viện trợ Pháp, và ở Rwanda do World Bank tài trợ.

ĐẶNG THÀNH HỔ*, PhD.

1981-1985: Kenya. Làm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc tế Côn Trùng (International Centre for Insect Physiology and Ecology – ICIPE) ở Nairobi và tại trạm nghiên cứu West Nyanza  chuyên về côn trùng trên lúa, bắp, đậu bò (cowpea) và lúa miến (sorghum).

Ngoài Phi Châu, còn công tác ở Solomon Islands (1986-1987) trước khi về lại Australia làm cho Bộ Nông Nghiệp.

TRƯƠNG ĐINH HUÂN*

Nguyên Giám Đốc Nha Nông Cơ (cơ quan tự trị, tự túc tài chánh thuộc Bộ Canh Nông), GS môn Nông Cơ tại trường Cao Đẳng NLS Sài Gòn, Phó Tổng Giám Đốc Nông Nghiệp đặc trách Chương Trình Phát Triển Hậu Chiến.

Di tản đến Hoa Kỳ năm 1975.

Từ 1979 đến 1990: Gồm các nước Senegal, Tchad, Sa mạc Sahara.

1979 – 1986: Senegal – Gồm các dự án:

–         Dự án PIDAC (Projet Integré de Developement Agricole de la Casamance) phát triển đồng bằng sông Casamance, với chức vụ Kỹ Sư Trưởng, sau này lên chức Trưởng Đoàn Chuyên Viên. Nhiệm vụ chính là nghiên cứu, thiết lập hồ sơ, xây cất một số đập ngăn mặn (anti-salt dams) tại vùng Casamance. Dự án bao gồm việc huấn luyện một số kỹ sư bản xứ trong việc nghiên cứu xây cất đập, giếng nước, v.v., và huấn luyện một số cai thầu trở thành nhà thầu biết xử dụng một số máy móc như máy trộn hồ (betonniere), máy ép hơi (compresseur) do Ông nhập cảng từ Hoa Kỳ. Dự án rất thành công vì thặng dư ngân khoảng (nhờ hối xuất US dollar thay đổi), nên thực hiện một số công tác nhiều hơn dự trù. Chẳng hạn, dự án dự trù tổng quát thực hiện 4 đập nhỏ, nhưng cuối cùng chương trình đã hoàn thành 7 đập, và hoàn tất nghiên cứu 9 hồ sơ đập lớn và nhỏ. Cũng trong Dự án này có BS Thú Y Hồ Hán Dân, Francis Cần.

–         Dự án BAKEL (phía Bắc Senegal). Tương tự như dự án PIDAC. Trong dự án này có sự tham gia của các TS Lê Nguyên Khôi, Vũ Văn Cử, Nguyễn Văn Ni, Nguyễn Thế Thiệu.

Ngoài ra, từ 1987 đến 1990, tham gia một số chương trình ngắn hạn như:

–         Chương trình thiết kế dự án tương tự trong vùng sa mạc Sahara, Tchad.

–         Chương trình thẩm định Dự án ở St Louis/ Senegal.

–         Chương trình thẩm định Dự án Bakel sau khi hoàn thành.

DR CAO THÁI HƯNG

Làm cho ICRISAT (International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics) tại phân vùng Phi châu ở Niger.

PHẠM THANH KHÂM*

Tốt nghiệp Kỹ Sư Canh Nông (Sài Gòn), Cao học Kinh tế Nông Nghiệp (USA), nguyên Giám Đốc Nha Canh Nông.

Tại Châu Phi:

Trong suốt 3 năm (1975-1978), Ông thường xuyên đi công tác ngắn hạn ở Tây Phi Châu gồm: Senegal, Mauritania, Niger, Burkina Faso, Chad and Mali, để điều nghiên về phân bón và canh nông, do USAID tài trợ.

Sau thời gian này, Ông thực hiện nhiều dự án dài hạn:

– Somalia (1980): Với chức vụ Chánh Chuyên Viên Nông nghiệp, nâng cấp, cải thiện dự án thủy nông Afgoi Mordil ở Somalia, để dẫn thủy cho 10.000 ha, đồng thời cải thiên lề lối canh tác mới với các hoa màu mang lợi tức cao hơn.

– Guinea (1980-1983) Cố vấn chương trình lúa gạo ONADER ở Conakry, do World Bank tài trợ, gồm cải thiện nghiên cứu lúa gạo ở các trại nghiên cứu lúa ở Koba, Baro, và Gueckedou; đưa vào Guinea hệ thống canh tác lúa nước, áp dụng hệ thống dẫn nước thoát nước, ngăn chận nước mặn tại Koba, áp dụng hệ thống bơm nước nhỏ tại Gueckedou cho lúa nước cao năng xuất. Trước đây Guinea chỉ biết canh tác lúa rẫy, năng xuất kém.

– Côte d’Ivoire (1984), hoạch thảo chương trình nghiên cứu và phát triển cơ quan IDESSA (Viện Nghiên Cứu vùng đất khô hạn savannah, nay là Centre Ivoirien de Recherches Technologiques, CIRT).

– Nigeria và Senegal (1985-1987): phân tách kinh tế nông nghiệp.

– Cameroon (1998-1990): Chánh Chuyên Viên Nghiên cứu, phụ trách quản trị các chương trình nghiên cứu, huấn luyện chuyên viên bản xứ, cố vấn nghiên cứu về cây hoa màu và cây ăn trái tại Viện Nghiên Cứu Nông Nghiệp ở Yaounde.

– Zaire (1991): Trưởng Cố Vấn cho Bộ Nông Nghiệp Zaire biên soạn và phối trí chương trình phát triển ngũ niên. Năm 1995, Ông trở lại Zaire để đánh giá phát triển lúa nước. Do UNDP và FAO tài trợ.

– Tanzania và Madgascar (1993): Chánh chuyên viên nông nghiệp, áp dụng kỹ thuật canh tác lúa nước và du nhập các giống lúa nước Á châu vào Tanzania, Madagascar, do FAO tài trợ.

– Niamey, Niger (1993): Đánh giá công trình thủy nông gồm hồ chứa nước, các đập nhỏ, giếng nước, máy bơm, hoạt động nghiên cứu hoa màu v.v., do UNDP tài trợ.

– Mali, Burkina Faso, Senegal, Guinea – Conakry (1994): Trưởng đoàn lượng định của FAO đến 4 quốc gia này để đánh giá sự phát triển canh tác lúa nước với các giống lúa nước du nhập từ Á châu.

 Mauritania và Senegal (1996): Trưởng đoàn chuyên viên, đến 2 quốc gia này để thẩm định và hỗ trợ chương trình thực phẩm, kỹ thuật canh tác lúa, v.v.

– Sierra Leone (1997): Hỗ trợ chương trình canh tác lúa nước, do UNDP và FAO tài trợ.

– Liberia (2008-2009): Chương trình phát triển lúa gạo Bộ Nông Nghiệp Liberia và sản xuất lúa gạo, cố vấn thiết lập ngân hàng hạt giống (seed bank) do USAID tài trợ.

Tại Á Châu:

– Việt Nam (1992-1993): Chánh Chuyên viên Kinh Tế Nông Nghiệp, thực hiện nhiều chuyến công tác ngắn hạn ở Việt Nam, do FAO tài trợ, lượng định tình trạng và tiềm năng nông nghiệp ở 7 vùng sinh môi về cây hoa màu, cây công nghiệp, hệ thống thủy lợi, thẩm định thất thoát hoa màu sau thâu hoạch; dự án phát triển Tuyên Quang, v.v.

– Lào (1992-1993): tương tự như VN.

– Afghanistan (2004-2007): Nhiều chuyến công tác ngắn hạn, Cải tổ Bộ Tổ chức hành chánh các phủ bộ (gồm Bộ Canh Nông) do WB tài trợ.

LÝ VĂN KHOAN

Phụ trách Bảo vệ mùa màng ở Burkina Faso và Rwanda.

LÊ NGUYÊN KHÔI (quá cố), PhD.

Nguyên Giảng Viên Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn. Chuyên viên nông nghiệp của USAID tại Senegal từ 1978 đến 1991.

PHẠM NHU KHÔI

1976-1978: Mali, làm ở Bộ Canh Nông tại Bamako.

LƯƠNG NHỊ KỲ (quá cố), PhD về Chính trị học (Anh quốc).

Nguyên Đại sứ VNCH tại Iran. Được biết Ông làm chuyên viên phát triển cho công ty Shell-Iran tại Dakar, Senegal.

BÙI QUÍ LAN, PhD về Chính trị học (USA).

Nguyên Đệ nhất Thư ký Tòa Đại Sứ VNCH tại Hoa Thạnh Đốn (1963 -1964). Được biết Ông làm Đại diện thường trực cho World Bank tại Cộng Hòa Zaire vào khoảng năm 1980.

NGUYỄN QUỐC LÂN

Làm cho UNDP và World Bank, chuyên viên kế toán cho OMVS ở Senegal từ 1975 đến 1980.

PHẠM HUY LÂN (quá cố)

Nguyên Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nông Nghiệp, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Canh Nông & Phát Triển Nông Nghiệp.

Sau 1975, làm cho World Bank ở Washington DC, phụ trách về phát triển nông nghiệp Phi châu, và thường xuyên công tác tại nhiều nước Phi Châu, nhiều nhất ở Madagascar.

GS TRƯƠNG HOÀNG LEM*, PhD về Hành Chánh Học (USA)

Nguyên Quyền Tổng Ủy Trưởng và Thứ Trưởng Phủ Tổng Ủy Công Vụ (1973-1975); Giáo Sư, Phó Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1970-1973).  Sau khi di tản đến Hoa Kỳ năm 1975, GS làm Giám Đốc Chương trình Hiệp Hội Hành Chánh Công (1975-1979), Giảng Viên Đại Học Georgetowm (1976-1980), Giảng sư Đại học George Mason (1979-1980), Giáo sư Đại Học George Washington (1980-1981).

1981-1989: Chuyên viên về Quản Lý Khu Vực Công Quyền (Public Sector Management) cho Ngân Hàng Thế Giới; đặc trách thẩm định khả năng thi hành và thiết lập các dự án phát triển liên hệ đến các ngành và tại các nước Phi Châu sau đây:

1. Kenya: Dự án Yểm trợ Kỹ thuật cho Chương trình Cải cách Chánh sách Nông nghiệp.

2. Madagascar:  Dự án phát triển Bông Vải; Phát triển Toàn bộ Nông nghiệp Vùng (regional development authorities) Morondave, Antsirabe; Dự án Cải cách Bộ Canh Nông và Bộ Lâm nghiệp & Chăn nuôi.

3. Zaire: Dự án Phát triển Nông nghiệp vùng Bandundu; Phát triển Chương trình trồng bắp trong vùng Kasai; Dự án Viện trợ Kỹ Thuật để yểm trợ các cải cách chính sách kinh tế.

4. Guine-Conakry: Dự án Viện trợ Kỹ thuật để yểm trợ Chương trình Cải cách Kinh tế – Tài chánh.

5. Senegal: Dự án Viện Trợ Kỹ Thuật yểm trợ Chương trình Cải cách chính sách kinh tế.

1989-2010: Chủ Nhân Đa số Phần hùn (Majority Partner) và là Tổng Giám Đốc (CEO) của Hảng L.T. Associates, Inc., Washington DC. Hảng này cung cấp dịch vụ tư vấn và huấn luyện về quản lý và lảnh đạo cho các quốc gia kém phát triển, kể cả các quốc gia Phi Châu. Phần lớn các dịch vụ này được tài trợ bởi Ngân Hàng Thế Giới và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (USAID).  

Chẳng hạn, LTA cung cấp dịch vụ tư vấn cho các quốc gia như Guinea-Conakry (Dự án tản quyền cung cấp các dịch vụ công cho các địa phương), Burkina-Faso (Dự án Cải Cách Hành chánh và Công vụ), Senegal, Nigeria, Benin, và Zambia (Lượng giá chương trình viện trợ về giáo dục sơ cấp; thiết lập dự án viện trợ giáo dục sơ cấp và trung cấp).

Ngoài ra,  trong vòng 20 năm qua, LTA đã huấn luyện trên 2.000 viên chức cao cấp các bộ/phủ của hơn 20 quốc gia Phi Châu nói tiếng Pháp và tiếng Anh  (trong số 35 quốc gia trên thế giới) trong các khóa huấn luyện ngắn hạn (2-3 tuần lể) tổ chức hầu hết tại vùng Washington DC.

TRẦN VĨNH LIÊM*, Doctorat de3ème Cycle (France)

Nguyên Giảng Viên Viện Đại Học Cần Thơ.

1974-1976: Làm nghiên cứu về Côn trùng tại Côte d’Ivoire cho luận án Doctorat de 3ème Cycle (Paris) do ORSTOM tài trợ.

1980-1990: Côte d’Ivoire, làm khảo cứu về côn trùng phá hại lúa, bắp, mía, v.v. và đồng thời giảng dạy tại trường Cao Đẳng Nông Nghiệp ở Yamoussoukro.

1994-2000: Senegal, khảo cứu côn trùng phá hại ngũ cốc trong kho.

GS CHÂU TÂM LUÂN, PhD

Nguyên Giáo Sư Kinh Tế Nông Nghiệp tại Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn. Chuyên viên cho chương trình Lao Động UN ở Cape Verde, Madagascar, Rwanda.

NGUYỄN MINH*

Kỹ Sư Canh Nông (Sài Gòn), Cao Học Nông Nghiệp (USA), nguyên Giám Đốc Nha Tổ Chức Nông Dân và Hợp Tác Xả.

1982-1986: Zaire: Chuyên viên Khuyến Nông cho Dự án phát triển nông Nghiệp Bắc Shaba, Zaire.

1986-1991: Chuyên viên Khuyến Nông Chánh cho vùng Central Shaba, Zaire.

1991-1992:  Sri Lanka: Chuyên viên Khuyến Nông Cây Hoa Màu Xuất Cảng trong dự án Phát triển Nông Thôn Mahaweli.

8/1993- 9/1993: Burundi, trong chương trình đánh giá kết quả 10 năm nghiên cứu về Tiểu Hệ Thống Canh Tác của USAID tại Burundi.

NGUYỄN TẤN NAM, Kỹ sư Hóa Học (Pháp)

Nguyên Tổng Giám Đốc Công Ty Đuờng VN, làm cố vấn kỹ thuật nhà máy đường ở Côte d’Ivoire.

DR ROGER TRƯƠNG VĂN NGÀ

Dạy Đại Học Nông Nghiệp ở Mali và Madagascar trong khuôn khổ viện trợ của Pháp.

LÊ SĨ NGẠC, Kỹ sư cầu cống (Pháp).

Nguyên Tổng Giám Đốc Ngân Sách Ngoại Viện. Vốn là bạn học với Tổng Thống Léopole Sédar Senghor của Senegal từ thời học ở Pháp. Được biết Ông làm Kỹ sư Cố Vấn kiến thiết cho Tổng Thống Senghor ở Senegal.

ĐINH HỮU NGUYÊN, Kỹ sư Cầu Cống (Pháp).

Làm ở Maroc.

NGUYỄN VĂN NGƯU*, PhD

1/1980 – 4/1983: Dự án hệ thống canh tác của World Bank-IITA-Cameroon, tại Bertoua.

5/1983 – 6/1987: Tham gia chương trình phát triển lúa gạo (IITA Rice Development Program) tại IITA, Ibadan, Nigeria.

5/1991 – 10/1993: Gia nhập FAO, phụ trách phát triển lúa gạo ở các quốc gia Burkina Faso, Mali, Guinea và Senegal ở Tây Phi, trụ sở chánh tại Bobo Dioulasso, Burkina  Faso.

11/1993 – 9/2009: Điều về trụ sở trung ương FAO tại Rome. Phụ trách và hổ trợ kỹ thuật các chương trình lúa gạo của FAO trên toàn thế giới, công tác khoảng 60 quốc gia.

Ngoài Phi Châu:

6/1976 – 6/1978: Làm việc tại Viện Lúa Gạo Quốc Tế IRRI, Los Banos, Philippines.

9/1978 – 12/1979: Nghiên cứu viên tại University of the Philippines ở Los Banos.

11/1987 – 4/1991: Philippine Rice Research Institute ở Nueva Ecija, Philippines

NGUYỄN AN NHƠN*

Kỹ sư Canh Nông (Pháp), chuyên viên kinh tế nông nghiệp (Agro-economist) trong các dự án:

1975-1976:  Côte d’Ivoire: Kế hoạch giao thông vận tải cho Côte d’Ivoire, do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ.  Nhiệm vụ:  đi đến tất cả các tỉnh trong nước để nghiên cứu vấn đền sản xuất nông nghiệp, và ước tính số lượng hàng hóa chuyên chở trên các trục giao thông trong thập niên tới; phối hợp với các chuyên viên vận tải để định tiêu chuẩn cho các tuyến đuờng sao cho phù hợp với mức sản xuất nông nghiệp.

1977: Senegal: Dự án xây đường từ thành phố Louga đến thành phố Dahra ở Sénégal.  Lúc đó giữa hai thành phố này đã có đuờng xe lửa, nhưng không đáp ứng được  việc chuyên chở số lượng nông phẩm  quá nhiều, vì thế chuyên viên nghiên cứu tất cả nông phẩm sản xuất trong vùng, để giúp định tiêu chuẩn cho việc xây thêm một tuyến đường bộ để  đáp ứng nhu cầu.

1977: Burkina Faso: Dự án xây đường bộ từ Ouagadougou (Burkina Faso) đến ranh giới Ghana.

1978: Tunisia: Dự án các đường nông thôn tại Tunisia, do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ. Công việc giống như dự án ‘‘Kế hoạch giao thông vận tải ’’ ở Côte d’Ivoire. 

Ngoài Phi Châu: Sau 1979, làm việc ở Asian Development Bank (ADB), Philippines và Indonesia (1979 – 1996), với tư cách Trưởng Chuyên Viên Kinh Tế các dự án phát triển, công tác thường xuyên tại các nước: Sri-Lanka, Pakistan, Bangladesh, Bhutan, Nepal, Myanmar, Việt Nam.

NGUYỄN VĂN NHUẬN (Bác Sĩ Thú Y, quá cố)

Tại các quốc gia ở Nam Phi Châu trong Cơ quan Viện Trợ Úc.

DƯƠNG KÍCH NHUỞNG

Nguyên Tổng Truởng Bộ Công Chánh, làm ở Cameroon.

NGUYỄN VĂN NI*

Tốt nghiệp Cao học (Hoa Kỳ), nguyên Giảng viên Đại học Nông Nghiệp Cần Thơ.

1982-1988: Senegal, chuyên viên thủy lợi tại Senegal do USAID tài trợ. Công tác gồm thiết kế và xây dựng các dự án dẫn thủy nhập điền, bơm
nước từ sông Senegal tưới ruộng trồng lúa, bắp, rau cải. Hoàn thành 24 hệ thống cho 24 làng dọc theo sông Senegal. Dự án thành công và được xem là một trong các
dự án thành công nhất của USAID ở Phi Châu.

ĐOÀN MINH QUAN*

Kỹ Sư Canh Nông (Rennes, Pháp), nguyên Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nông Nghiệp, Thử Truởng Bộ Canh Nông & Cải Cách Điền Địa.  Sau hơn 3 năm bị cải tạo (1975-1978), Ông vượt biển và định cư ở Hoa Kỳ (1980).

-Năm 1980: Làm việc cho Công Ty Tư Vấn Experience Incorporated tại Washington DC với nhiệm cụ tham khảo tài liệu để viết đề nghị các dự án phát triển nông nghiệp tại Phi Châu để gởi đến các tổ chức quốc tế, nhứt là USAID.

1981-1983: Làm việc cho Experience Incorporated với tính cách chuyên viên nông nghiệp trong dự án phát triển nông thôn toàn diện (Integrated Rural Development Project) tại Guidimaka (Mauritania) chú trọng về cải thiện kinh tế xã hội qua phát triển canh nông, chăn nuôi và lâm nghiệp. Thực hiện tổ chức nông dân, giáo dục căn bản, xóa nạn mù chữ và cải thiện y tế cơ bản. Dự án do USAID tài trợ.

1983-1986: Làm việc cho Checchi and Company với tư cách Trưởng đoàn trong dự án phát triễn nông nghiệp tại Koudougou (Burkina Faso). Trưởng đoàn có nhiệm vụ giúp đở Bộ Canh Nông về kỹ thuật và quản lý dự án để thực thi những công tác khuyến nông cải thiện canh tác hoa màu và chăn nuôi, tổ chức nông dân để cấp tín dụng, xử dụng hữu hiệu nông cụ và cơ giới, khảo cứu ứng dụng để phổ biến phương pháp xử dụng hữu hiệu phân, nước, bảo vệ mùa màng và gia súc. Trưởng đoàn còn có nhiệm vụ phối hợp, giám thị (supervise) các chuyên viên nước ngoài để thực hiện các công tác trên. Dự án này do Ngân Hàng Thế Giới (80%) và Hòa Lan (20%) tài trợ.

1986-1988: Làm việc cho Louis Berger International với tư cách Trưởng đoàn Cố Vấn Kỹ Thuật trong dự án phục hồi các hệ thống tiểu thủy nông (từ 200 đến 3000 ha) tại Madagascar. Trưởng đoàn có nhiệm vụ trợ giúp Bộ Canh Nông quản lý dự án, phối hợp và giám thị các chuyên viên nước ngoài giúp nghiên cứu công trình thủy nông, kinh tế nông nghiệp, tổ chức và huấn luyện nông dân để nông dân thu hoạch lợi tức tối ưu khi hoàn tất phục hồi hệ thống thủy nông. Dự án này do Ngân Hàng Thế Giới, Cộng Đồng Âu Châu và Pháp tài trợ.

1988-1991: Làm việc cho Ngân Hàng Thế Giới với tư cách Chánh Chuyên Viên Khuyến Nông tại Mali.  Có nhiệm vụ phối hợp các cơ quan Bộ Canh Nông, và giám thị các công tác thực thi dự án khuyến nông toàn quốc nhằm mục tiêu: (i) Khảo cứu ứng dụng và phổ biến phương pháp cải thiện sản xuất các loại cây thực phẩm chánh của Mali (lúa gạo, lúa miến, kê và đậu); (ii) thực hiện công tác liên kết sản xuất hoa màu và chăn nuôi; (iii) thực hiện công tác bảo vệ môi trường như trồng cây gây rừng, bảo vệ đất trồng, đấp bờ giữ nước và cải thiện đất với phân hữu cơ v.v.; (iv) khuyến khích phụ nữ nông thôn gia tăng lợi tức với phát triển hoa màu và nuôi gia súc. Dự án này do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ.

1991-1994: Công tác tương tự tại Madagascar.

CAO QUẢN

Làm khuyến nông ở Phi Châu kể từ 1977 ở Senegal, Niger và nhiều nước khác.

GS ĐINH XUÂN QUÂN*, Doctorat d’Etat in Economics (Sorbonne, Paris), MBA Temple University (Philadelphia, PA).

            Nguyên Giáo sư Kinh Tế Đại Học Luật Khoa Sài Gòn và Đại Học Minh Đức (Sài Gòn).  GS  chuyên về lảnh vực Ngân Hàng, quản trị tài chánh và phát triển quốc tế. GS cũng là Chánh Chuyên Viên Kinh Tế trong Chương Trình Phát Triển Kinh Tế Hậu Chiến (1974-1975) của Việt Nam Cộng Hòa.

            Sau 4 năm học tập cải tạo, lao động đào kinh thủy lợi và trồng trọt (1975-1979), vượt biên và định cư tại Hoa Kỳ, làm tư vấn và thường xuyên công tác ở 23 quốc gia, trong số này GS có làm việc lâu dài ở 10 quốc gia Phi Châu (Trung Phi, Guinea, Kenya, Liberia, Niger, Madagascar, Mauritania, Rwanda, Nam Sudan, và Zaire).

Phi Châu: Ngay sau khi định cư ở Hoa Kỳ, GS nhận nhiệm vụ ở các nước Phi Châu:

– Mauritania (1980-1981): Với tư cách Kinh tế gia, tư vấn cho hoạch thảo Kế Hoạch Phát triển Mauritania, dự án do USAID tài trợ. Là trưởng đoàn của nhóm chuyên viên gồm 6 nhà nông học, kinh tế gia, kỹ sư, trách nhiệm cho chương trình phát triển gốc (Master plan) 20 năm trong lãnh vực nông nghiệp.

– Guinea (1982-1983): Với tư cách Chánh Chuyên Viên kinh tế /Trưởng đoàn, tư vấn cho Bộ Nông nghiệp và Cơ quan Phát triển Lúa Gạo Onader (Operation Nationale pour le Developpement de la Riziculture) của Guinea. Dự án do Ngân Hàng Thế giới và Ngân Hàng Phát Triển Phi Châu tài trợ, gồm hoạch định, quản lý các chương trình phát triển lúa và phát triển nông thôn, như xây dựng đường giao thông, đập, hệ thống thủy nông, sản xuất hạt giống, nhà máy biến chế nông phẩm, và thiết lập 5 trại nghiên cứu về lúa, bắp, cà phê, v.v.

– Trung Phi (Central Africa Republic) (1983 -1986): Giáo sư giảng dạy môn Kinh Tế ở Đại Học Bangui (1983-1984), và cùng lúc (1985) làm Tư vấn cho Ngân Hàng Thế Giới trong dự án « Bông gòn » thiết kế, hoạch định, huấn luyện, nghiên cứu thăm dò (survey)  tại Trung Phi.

      Từ 1985-1986, GS đảm nhiệm một dự án khác do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ, gồm tham gia trong các giai đoạn phát triển dự án, phân tích kinh tế, nghiên cứu, thiết kế, theo dỏi và lượng định các dự án nông nghiệp ở Madagascar, Zaire và Kenya.

– Zaire (1987-1989): Chánh Cố Vấn Kỹ thuật/Trưởng đoàn, cố vấn cho Bộ Nông Nghiệp Zaire, do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ. Công tác gồm cố vấn về chánh sách và phát triển nhân sự, đầu tư lãnh vực nông nghiệp, phối hợp với cơ quan tài trợ, v.v. Đồng thời, giảng dạy môn Kinh Tế ở University of Kinshasa trong suốt thời gian này.

– Madagascar (1991): Tư vấn cho UNDP trong chương trình huấn luyện chuyên viên bản xứ  thuộc Ngân Hàng Trung Ương, Bộ Tài Chánh và Bộ Hoạch Định Kinh Tế về quản trị kinh tế tài chánh, ngân hàng, v.v. Đông thời GS cũng tham gia thiết kế Chương trình phát triển ngũ niên 1992-1996 cho Madagascar. Ngoài ra, GS còn giảng dạy môn Kinh Tế ở University of Antananarivo, Madagascar.

– Kenya: tương tự như Zaire.

– Rwanda: Tư vấn Chương trình ngũ niên (1990 -1995), do Ngân Hàng Thế giới tài trợ

– Niger: Công tác giám định các dự án nông nghiệp do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ

– Liberia (từ tháng 4/2008 đến tháng 5/2009 – hiện nay làm ngắn hạn (2010)): Chánh Cố vấn/ Trưởng đoàn Viện trợ Kỹ Thuật cho Bộ Nông Nghiệp Liberia, do USAID tài trợ. Công tác gồm cố vấn chính sách cho Bộ Nông Nghiệp tham gia xây dựng hậu chiến trong các lĩnh vực tái thiết xây dựng, hoạch định các dự án nông nghiệp, định cư, chính sách lương thực, v.v., cùng giám sát và giám định các dự án thực hiện, do Ngân Hàng Phát Triển Phi Châu, Viện trợ của Đan Mạch (Danida) và Italy, USAID.

– Nam Sudan (South Sudan) (Từ 2004 đến nay): Trong chương trình phát triển “hậu chiến cho các nước hậu xung đột” (Post Conflict) gồm cố vấn cải tổ hành chánh, tài chánh, hoạch định phát triển kinh tế, v.v. do USAID tài trợ.

Á Châu:

 – Nhật Bản (1998- 1999): Giảng dạy cho các chuyên viên kinh tế/tài chánh/ngân hàng của các nước Á Châu (cấp Bộ trưởng, Thứ trưởng, v.v.) tại Học Viện Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB) ở Tokyo.

– Việt Nam. GS công tác nhiều lần về Hà Nội.

·        1990 – 1992: Tư vấn tài chánh trong lảnh vực nông nghiệp, biên soạn các dự án công tác tại VN, dự án phát triển Tuyên Quang do IFAD (Infrastructrure Finance & Development Asia) Rome tài trợ.

·        Tháng 10/1994 – 1997: Chánh Cố vấn cho Bộ Nội Vụ về Cải Cách Hành Chánh Công Vụ, và điều viên Viện trợ với các cơ quan tài trợ (UNDP, ADB, WB, Hòa Lan, Thụy sỉ, Thụy Điển , v.v.); Cố vấn cho Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư về thiết kế và xử dụng chương trình đầu tư.

– Nepal: Lượng định chương trình PFL ở Nepal, do FAO tài trợ.

– Indonesia (2000-2003): Chánh Cố vấn Kinh Tế nhiều dự án lớn hổ trợ Ngân Hàng Trung Ương, Bộ Tài Chánh, Bộ Thương Mại của Indonesia, do USAID tài trợ. Ngoài ra, GS giảng dạy Kinh Tế tại University of Indonesia (UI) tại Jakarta.

Các quốc gia xung đột nội chiến: Kể từ 2000 đến nay, GS phụ trách phát triển cho các nước Á Châu và Phi Châu có nhiều xung đột nội chiến như Afghanistan, Azerbaijan, Iraq, Kosovo, Liberia (đã tường trình ở trên) và Nam Sudan (đã nói ở trên), do USAID và WB tài trợ:

– Azerbaijan (từ 1/9/2009 đến nay): Chánh Cố Vấn hổ trợ dự án cải tổ chính phủ về tài chánh, ngân sách, v.v.

– Afghanistan (từ tháng 7/2004 đến 6/2007): do USAID, WB và DANIDA tài trợ, gồm cải cách hành chánh, nhân sự, phát triển của các Bộ và cơ quan, tài chánh và ngân sách, ngân hàng, v.v.

– Kosovo: do USAID tài trợ, cải tổ Kinh Tế  Tài Chánh thuộc Bộ tài chính.

– Iraq (7/2007 – 3/2008): do USAID tài trợ, chủ yếu về chính sách kinh tế.

TRẦN ĐÌNH QUẾ

Nguyên Tổng Giám Đốc Canh Nông, giúp ngành nông cơ ở Senegal và Mauritania.

NGUYỄN HỬU QUYỀN, PhD.

Nguyên Giảng sư Đại Học Nông Nghiệp Cần Thơ.

Hoạt động trong một dự án nông nghiệp ở Zaire, rồi Niger, sau đó làm việc ở AVRDC (Viện nghiên cứu Rau Cải thế giới– The World Vegetable Center) tại Đài Loan.

VŨ NGỌC RUẪN*

Nguyên Giảng viên Đại học Nông Nghiệp Cần Thơ. Thường xuyên công tác ngắn hạn tại Kenya và Madagascar, trong khuôn khổ viện trợ giáo dục của Đại Học Bách Khoa Zurich (ETHZ) về dinh dưởng.

LƯƠNG THẾ SIÊU, Kỹ sư Kiều Lộ (Đại học Bách Khoa, Pháp)

Nguyên Tổng trưởng Công chánh nhiều nội các trước 1975. Được biết ông làm về Công Chánh ở Cameroon, Senegal, sau làm cho UNIDO (United Nations Industrial Development Organization) ở nhiếu nước Phi Châu khác.

NGUYỄN HOÀNG SƠN, PhD.

Kể từ 1980 đến nay, làm ở Mali và Guinea. Hiện làm ở Albani.

GS NGUYỄN VĂN THẠCH

Nguyên Khoa Trưởng Sư Phạm, Viện Đại Học Cần Thơ.

Được biết làm ở Gabon, Algérie và Côte d’Ivoire.

VŨ VĂN THÁI (Kỹ sư École Centrale de Paris, quá cố)

Nguyên Tổng Giám đốc Ngân sách Ngoại Viện, Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ.  Được biết Ông làm Chánh Đại diện của chương trình UNDP ở Togo (1973-1974), Chánh Chuyên viên  UNDP  cho OMVS (phát triển sông Senegal ở các nuớc Senegal, Mali,  Mauritania và Togo)  ở Dakar, Senegal (1975-1980), Guinea (1982-1985). Đồng thời Ông là cố vấn cho các tổng thống của Senegal và Mauritania.

HOÀNG KHẮC THÀNH (Diploma from HEC, Pháp, quá cố)

Nguyên Bộ Trưởng Kinh Tế. Chuyên viên kinh tế cho Mauritania về thiết lập chính sách tiền tệ thoát khỏi kiềm chế của đồng Franc Pháp. Sau đó làm việc ở Côte d’Ivoire. 

ĐỖ CAO THIỆN*, Doctorat de troisième cycle.

Nguyên Giảng Viên trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (1970-74).

– 1979-1980: Maroc: Giảng dạy ở Faculté de sciences Marrakech, do Bộ Ngoại Giao Pháp tài trợ.

– 1980-1991: Burkina Faso: Giảng dạy ở Học Viện Phát Triển Nông Thôn (Institut du Développement Rural) ở Ouagadougou, do Bộ Hợp Tác Quốc Tế của Pháp gởi đi. Làm tư vấn cho dự án lúa gạo vùng Tây-Nam Burkina, tư vấn cho Ủy ban chống khô hạn ở vùng Sahel.

– 1991-1997: Bénin: Giảng dạy tại Đại học nông nghiệp Cotonou, do Bộ Hợp Tác Quốc Tế của Pháp tài trợ; giúp nông dân trồng lúa ở miền Trung nước Bénin; và thành lập Trung tâm nông cơ chuyên về lúa.

– 1998-2002: Côte d’Ivoire: Chuyên viên dự án Centre des Métiers Ruraux tại Abidjan, lo về tổ chức nông dân và đào tạo kỹ thuật sản xuất nông phẩm, do Bộ Ngoại Giao Pháp gởi đi (chương trình này do Pháp, Đức và World Bank bảo trợ).
– Sau 2002 phục vụ ở Bộ Canh Nông Pháp.

NGUYỄN THẾ THIỆU*

Kỹ Sư Canh Nông (Sài Gòn), Cao Học Nông Nghiệp (USA), nguyên Giám Đốc Nha Khuyến Nông.

1982-1987: Senegal: chuyên về Khuyến Nông trong dự-án phát-triển nông nghiệp dùng hệ thống thủy nông bơm nước từ sông lên các vùng dự án nông nghiệp.  Dự án do USAID tài trợ.

1987-1990: Burkina Faso, Trưởng Dự án Huấn Luyện & Du sát (Training and Visit). Dự-án Khuyến-Nông chuyên về huấn-luyện nông dân. Dự-án thuộc World Bank tài trợ.

1990-1992: Tanzania; Trưởng Chương Trình Khuyến Nông, dự án Huấn Luyện & Du sát, chuyên về huấn luyện nông dân. Dự-án do World Bank tài trợ.

TRẦN THIỆN TÍN

Nguyên chuyên viên dinh điền thời Đệ nhất VNCH, dạy canh nông ở Mali và Rwanda (Butaré).

DR VÕ QUANG TRÍ (Kỹ Sư Canh Nông, Tiến sĩ Toán, Pháp)

Cố vấn Nha Khảo Cứu ở Libreville (thủ đô của Gabon) khoảng thập niên 1980s.

GS NGUYỄN HỮU TRÍ

Nguyên Giáo Sư Viện Đại Học Huế, làm giáo sư Vật Lý ở Đại học Khoa học Ouagadougou (Burkina Faso), khoảng từ 1985-1993 do UNDP, kế đó do Bộ Hợp Tác Quốc Tế của Pháp tài trợ.

GS TÔN THẤT TRÌNH*

Nguyên Giám đốc Nha Ngoại Viện (1956), Giám đốc Kỹ thuật Dinh Điền Phủ Tổng Ủy Dinh Điền (1957), Tổng Thơ ký Bộ Canh Nông & Cải Tiến Nông Thôn (1962); Chuyên Viên Cố vấn UNDPở Cộng Hòa Dahomey (nay là Benin) (1964); Giáo Sư  Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (1963-1974), Giám đốc truờng Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (1964), Phụ tá Tổng Truởng Kinh Tế (1964-65), Tổng Truởng Bộ Canh Nông & Cải Cách Điền Địa (lần 1, 1967), Tổng Ủy Truởng Kế Hoạch (1968), Tổng Truởng Bộ Canh Nông & Cải Cách Điền Địa (lần 2, 1973). Vuợt biển tháng 4/1975, sang Singapore, rồi Guam. Tháng 7/1975, tị nạn tại Pháp.

Từ tháng 10/1975 đến 1980, nhờ kinh nghiệm Phi Châu ở Dahomey truớc kia (1964), Giáo su đuợc cơ quan FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations) tuyển dụng làm chuyên viên nông nghiệp tại Kaedi (Mauritania) trong chương trình OMVS (Organisation pour la mise en valeur du fleuve Sénégal). Nhờ làm lúa gạo thành công ở Kaedivới năng xuất 3 vụ/năm tới 23- 30 tấn, năm 1977 FAO đề bạt lên giữ chức Giám Đốc dự án OMVS phát triển nông nghiệp vùng sông Senegalcho 3 quốc gia Sénégal, Mauritania và Mali. Cũng trong thời gian này, GS cố vấn thực hiện chương trình trồng lúa trên đất phèn lẫn nuôi tôm cá ở Guinée Bissau và Sierra Leone; làm lúa rẫy, lúa nuớc ở Liberia.

Năm 1980, đuợc FAO tuyển chọn làm Chánh Chuyên Viên Lúa Gạo  cho FAO trung ương tại Rome (Italy), kiêm chức vụ Thư Ký Kỹ Thuật, sau này đổi thành Tổng Thư Ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế (Executive Secretary of the International Rice Commission – IRC), lúc đó gồm 115 quốc gia có trồng hay thí nghiệm lúa trên thế giới. Trong thời gian ở Rome (từ 1980 đến 1994), đi công tác thuờng xuyên nghiên cứu ở Phi Châu để lập dự án lúa cho Congo Kinshasa, Congo Brazzaville, Comoros Islands và Madagascar; lập các dự án nông nghiệp khác, ngoài lúa, tại Gabon – Libreville, Côte d’Ivoire, Burkina Faso (tên củ là Upper- Haute Volta), Niger, Tanzania, Egypt, Kenya.  Ở Mỹ Châu, Giáo sư tổ chức hội nghị lúa gạo của FAO ở Brazil, viếng thêm các vùng trồng lúa rẫy ở Mexico. Tại Âu Châu thăm viếng, thảo luận, cố vấn về lúa Japonica cho Hà Lan, Pháp (vùng Camargue, Montpellier), Italy (sông Pô), Bỉ, Kosovo, Serbia, Albania, Bulgaria. Ở Á Châu, tổ chức hội nghị lúa gạo FAO ở Phi Luật Tân, Thái Lan, Ấn độ, Hồi Quốc, Bangladesh, và làm những dự án giúp đở Việt Nam thực hiện canh tác lúa lai Hybrid F1.

VÕ NGỌC TRƯỚC (Kỹ Sư biến chế thực phẩm, Paris)

Nguyên Giảng Sư Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn. Làm cho công ty đường ở Côte d’Ivoire.

NGUYỄN VĂN TRƯƠNG (Kỹ sư Canh Nông, Pháp)

Nguyên Phó Giám Đốc Kỹ thuật khu Dinh Điền Ban Mê Thuộc, kỹ sư phụ trách nhà máy đường mía Bình Dương. Sau 1975, làm cố vấn kỹ thuật trồng mía cho công ty đường mía ở Côte d’Ivoire.

GS NGUYỄN VIẾT TRƯƠNG* (PhD, Australia)

Nguyên Khoa Trưởng Nông Nghiệp, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ. Vượt biển tháng 4/1975, định cư tại Queensland (Australia). Tại Queensland GS chuyên nghiên cứu cỏ Vetiver về các khía cạnh sinh lý và nông học (đặc tính rễ phát triển, hấp thụ chất độc, thích ứng rộng rải môi trường trên mọi loại đất kể cả cát sa mạc, đất phèn, đất mặn, đất ngập lụt, v.v.) và áp dụng thực tiển trong việc chống xoi mòn đất trên đất dốc, đất sạt lở ven sông rạch, bờ đê và bờ biển, chận cát bay trong sa mạc; lọc nước và xử lý ô nhiểm môi trường gây bởi chất phế thải từ các nhà máy kỹ nghệ, chuồng trại gia súc, tái tạo đất các vùng hầm mỏ, v.v. Chính nhờ những thành quả này, Ông trở nên một chuyên viên lổi lạc và duy nhất trên thế giới trong lãnh vực này. Ông được mời làm tư vấn trong rất nhiều dự án do World Bank, Asian Development Bank, USAID, AusAID, NGO  và chính phủ các nước tài trợ. Ông làm tư vấn cho các quốc gia Phi Châu như South Africa, Madagascar, Kenya, Tanzania,  Senegal, Congo, Morocco, Ethiopia; ở  Nam châu Âu như Italy, Spain; ở châu Mỹ như Chile, Venezuela, Brazil và Costa Rica; ở châu Á như China, Kwait, Philippines, Thailand, và Việt Nam.

GS Nguyễn Viết Trương nhận 3 giải thưởng của World Bank (1991, 1993, và 1995), giải thưởng của Vetiver Network (1999), Giải thưởng của Hoàng Gia Thái Lan (2000), giải thưởng nhất hạng Healthy Waterways Awards của Bộ Môi Sinh tiểu bang Queensland (2003); và được Liên Hiệp Quốc tặng thưởng qua những công trình nghiên cứu chống xoi mòn đất đai và được ghi danh trong cuốn “Danh Nhân Đông Nam Á”.

NGUYỄN VĂN TỬU*

Kỹ sư Thủy Tính (Ecole Nationale Supérieure d’HydrauliqueGrenoble, Pháp); BSc  Pháp Lý và Kinh Tế về Lãnh vực Năng lượng (University of Grenoble); MSc Vật Lý Thâm Cứu (University of Grenoble); PhD Vật Lý Thâm Cứu (University of Sorbonne, Pháp); Kỹ Thuật Thâm Cứu Nông Nghiệp (Cornell University, Hoa Kỳ);  Kinh Tế Vi Mô về Thẩm định và Quản lý Đầu Tư (Havard University, Hoa Kỳ); Chánh sách và Quản Lý Kinh Tế Vĩ Mô (Havard University, Hoa Kỳ).

            Ông là chuyên viên của Ngân Hàng Thế Giới. Ông chuyên về quản lý, kế hoạch, hoạch định phát triển vùng, phát triển nguồn nước, phát triển nông thôn và nông nghiệp, thủy lợi, bảo vệ môi trường và cơ sở hạ tầng, bao gồm các lãnh vực về cơ chế, quản lý, tổ chức, kinh tế vi mô và vĩ mô, tài chánh công và tư. Địa bàn hoạt động và công tác gồm Phi Châu, Hoa Kỳ và Nam Mỹ, Đông Nam Á Châu, Trung Đông và Âu Châu, tổng cộng 51 quốc gia.

Phi Châu:

            Algeria: Nghiên cứu thủy lợi đồng bằng Abadla: đập nước Djorf Torba; vấn đề nước mặn, công trình chống lũ lụt cho vùng dẫn thủy Wadi Guir – Abadla (22.000 ha); dự án thủy lợi Cheliff, Mitidja; phát triển vùng Sahara.

            Burkina Faso : Thiết kế đập Sourou, 620 Hm3; thiết lập cầu tại vùng Bobo-Banfora-Houndé, trên sông Maggia tại Taboyé, trên sông Zourourou tại Keita; nghiên cứu những đập chứa nước tại Léoupo, Gouniana, Yako, Diabo, Dapelogo, Bourra, Ourougou,Tougan và Dawaka; thiết kế công trình thoát thủy tại Dori-Falagountou.

Burundi: Dự  án đập Kagunuzi và thủy lợi.

Cameroon: Dự án thoát thủy tại Douala.

Chad: Nghiên cứu xói mòn và độ bền vững bờ sông, thiết kế hệ thống chống xoi mòn bờ sông Chari tại NDjamena; thiết kế công trình chống đở cứu vãn cầu Moundou trên sông Logone.

            Congo Brazzaville: Nghiên cứu tái thiết hậu chiến.

            Côte d’Ivoire: Công trình bảo vệ lụt cho thành phố và cảng Kori Teloua; thiết kế công trình cung cấp nước cho cảng San Pedro; thiết kế hệ thống thoát thủy lưu vực Gouro; thiết kế điều hòa 6 đập nước vùng tây bắc Abidjan.

            Ethiopia: Nghiên cứu tài nguyên nước cho Addis Ababa, nghiên cứu các đập Gafarsa và Lagadadi.

            Gabon: Thiết kế 230 cầu và hệ thống thoát nước trên đoạn đường rầy xe lửa Booue-N’Djole.

            Gambia: Chống nước mặn xâm nhập ở đập Darsilamy.

            Guinea: Lượng định chương trình phát triển toàn diện vùng Upper Gambia.

            Madagascar: Nghiên cứu nới rộng cảng Tamatave; nghiên cứu thủy tính và thiết kế công trình thủy lợi ở vùng Antsohihy-Ambanja; các dự án thủy lợi Mangoky, Lac Alaotra; dự án canh tác lúa trên cao nguyên.

            Mauritania: Nghiên cứu vùng dẫn thủy tại Tamourt-en-Naaj; nghiên cứu phát triển thủy lợi từ hồ R’Kiz; thiết kế hệ thống thoát thủy ở M’bout-Selibaby.

            Morocco: Dự án thủy lợi.

            Mali: Dụ án canh tác lúa Mopti.

Niger: Nghiên cứu hoạch định công trình bảo vệ chống lũ lụt vùng Agades từ sông Kori Teloua; công trình thoát nước tại vùng Tsernoua-Tahoua-Arlit; thiết lập cầu trên sông Maggia tại Taboyé, và cầu trên sông Zourourou tại Keita; nghiên cứu đập chứa nước Kirchia.

            Nigeria: Dự án thoát nước bão lụt và dự án cung cấp nước cho thành phố Lagos.

            Rwanda: Dụ án Nyabarongo.

            Senegal: Nghiên cứu việc phát triển canh tác lúa tại Kamobeul; thiết kế vùng dẫn thủy tại Fanaye và Djibelor với các hệ thống kiểm soát nước mặn.

            Togo: Công trình thoát nước tại vùng Sokodé-Blitta.

            Tunisia: Nghiên cứu thủy tính, thiết kế công trình thoát nước và các cầu cống tại đồng bằng Kairouan.

            Liên quốc gia Guinee, Mali, Mauritania và Senegal: Cố vấn kỹ thuật cho OMVS (Organisation pour la Mise en Valeur du Fleuve Sénégal) gồm đập Diama với các công trình cơ sở hạ tầng như các đê hửu ngạn và tả ngạn cho các nước trong lưu vực, thẩm định kinh tế phát triển châu thổ Mauritania, phục hồi diện tích dẫn thủy 39.000 ha cho Mali, Mauritiana và Senegal.

            Liên quốc gia Zaire, Rwanda và Burundi: Nghiên cứu đánh giá tài nguyên nước.

Các quốc gia khác ngoài Phi Châu:

            Pháp: Nghiên cứu, giám thị các công trình xây đập Baix le Logis Neuf; đập Beauvoir; đập Monteynard; nghiên cứu và thiết kế công trình bảo vệ chống lụt vùng Sarthe, Orne, Loir-et-Cher và Herault.

            Brazil: Nghiên cứu thủy tính, thiết kế công trình thủy lợi để canh tác 11.000 ha lúa tại Itiúba và Propriá.

            French Guiana: Phát triển vùng Terres Basses (300.000 ha) canh tác lúa và chăn nuôi.

            Haiti: Canh tân hệ thống thủy lợi cho vùng canh tác lúa Artibonite (33.000 ha).

            Peru: Công trình chống lũ lụt vùng trồng lúa Piura và Chira (42.000 ha).

            Venezuela: Nghiên cứu phát triển toàn diện vùng phía nam hồ Maracaibo.

            Liên quốc gia Argentina, Brazil và Uruguay: Nghiên cứu thiết lập mô hình toán học về thủy tính sông Paraná và sông Plata.

            Iran: Nghiên cứu hoạch định nguồn nước, thiết kế đập cung cấp nước cho kỹ nghệ, sinh hoạt và nông nghiệp tại vùng Gorgan ad Mazanderan.

            Iraq: Nghiên cứu thoát thủy vùng Kirkuk-Mosul.

            Phi Luật Tân: Thiết kế các công trình thủy lợi cho canh tác lúa vùng Tagatay-Batangas.

            Thái Lan: Dự án Nông-Khai, nghiên cứu thiết kế hệ thống bơm nước và thoát thủy vùng trồng lúa 8.000 ha tại Ban Hin Ngom.

            Việt Nam: Tư vấn về chính sách kinh tế vĩ mô, tổ chức WTO, phát triển vùng Tây nguyên, hệ thống đê điều sông Hồng, bảo vệ vùng duyên hải Việt Nam đối đầu với hiện tượng nước biển dâng cao (2006-2009).

Liên quốc gia Việt Nam, Cambodia, Lào: Tư vấn cho Ủy ban Mekong Liên Hiệp quốc (United Nations Mekong Committee) (1964-1965): Nghiên cứu đập Drayling, Prek Thnot.

Ông được giải thưởng của Hiệp Hội Kỹ sư Công Chánh Pháp (1960) và giải thưởng của Ngân Hàng thế giới (1997).

BÙI HỮU TUẤN, Kỹ sư Cầu Cống (Paris)

Nguyên Thứ trưởng, rồi Tổng trưởng Bộ Công Chánh (1963-1964), và Đổng lý Văn phòng Bộ Công Chánh. Được biết Ông làm về công chánh ở Senegal và nhiều nuớc Phi Châu khác.

GS THÁI CÔNG TỤNG*

Nguyên Giám Đốc Viện Khảo Cứu, Trưởng Khối Kế Hoạch Bộ Canh Nông, Giáo Sư truờng Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn.

Kể từ 1982, GS làm việc tại Phi Châu, cả Đông Phi lẫn Tây Phi, và miền Sahel khô hạn (phía nam sa mạc Sahara). Bắt đầu làm việc ở Rwanda năm 1982-83, trong dự án Mutara, phía Bắc Rwanda (sát biên giới với Uganda). Trong vùng này có nhiều thung lũng bỏ hoang và mục đích dự án là biến cải các thung lũng này thành ruộng lúa. GS phụ trách phần nông nghiệp: huấn luyện, khảo cứu, khuyến nông với nhiều kết quả rất khích lệ. Sau năm 1986, GS lại có dịp đi tư vấn về nông nghiệp cho nhiều dự án khác về nông nghiệp tại Guinée Bissau, Guinée Conakry. Năm 1988-1990, lại trở sang làm việc cho một dự án khác cũng tại xứ Rwanda, lần này dự án ở gần biên giới miền Tây xứ Zaire (tức Congo). Năm 1991, tham vấn cho một dự án ở Niger, và năm 1992-93, lại làm cho một dự án khác ở Mali.

Ngoài Phi Châu, Giáo Sư còn công tác nông nghiệp trong dự án DRIPP (Développement régional intégré Petit Goave – Petit Trou de Nippes) ở Haiti (1976-1981) và dự án K-BIRD (Karnali-Bheri Integrated Rural Development) ở Nepal (1983-1986).

TRẦN THỊ CẨM TUYẾN* 

Công tác thiện nguyện tại Gambia cho Peace Corps (1991-1992), chuyên về khuyến nông.

PHẠM HỮU VINH (quá cố)

Nguyên Tổng Thư Ký Bộ Công chánh, làm ở Algérie.

NGUYỄN THÁI VŨ*, PhD (USA)

Nguyên Giảng Viên tại Viện Đại Học Cần Thơ.

1983: Senegal.  Phụ trách một thời gian rất ngắn trong dự án phát triển cơ khí nông nghiệp dọc biên giới Senegal và Mauritiana. 

1983- 1987Cameroon, do  University of Florida/ USAID tài trợ. Đây là dự án phát triển nền giáo dục Đại Học và trung cấp cho Cameroon, đặc biệt xây dựng Centre Universitaire de Dchang, gồm có 5 Giáo sư của Đại học Florida, trong đó Dr Vũ phụ trách về phần Nông Cơ.

1991-1995: Malawi, do USAID tài trợ.  Phụ trách phát triễn và giảng dạy tại Phân Khoa Nông Cơ tại Bunda College of Agriculture thuộc University of Malawi. 

1988-1990: Indonesia Project.  Winrock Internationa/USAID/ Indonesia Project, phụ trách phát triển thiết bị nghiên cứu  cho các viện khảo cứu ở Sumatra, Java, Kalimantan, Sulawesi.

*Tư liệu cung cấp qua liên lạc cá nhân.

KẾT LUẬN:

Như vậy, có ít nhất là 76 chuyên viên Việt Nam làm việc “cho” và “tại” Phi Châu. Tất cả đều tốt nghiệp ở các các đại học nổi danh trên thế giới, nhiều nhất là Pháp (43) và Hoa Kỳ (24). Đó là chưa kể một số rất lớn chuyên viên ở các đại học, học viện nghiên cứu, rải rác khắp Âu Mỹ, cũng có góp công gián tiếp vào việc phát triển Phi châu, như đào tạo chuyên viên Phi Châu, nghiên cứu những vấn đề của Phi Châu, v.v. Chẳng hạn, tác giả đã đào tạo khoảng 15 chuyên viên sau bậc đại học cho Phi Châu, có đến vùng Sahel để truyền đạt kiến thức khoa học mới trong việc bài trừ nạn cào cào châu chấu cho vùng này.

Trong số 76 chuyên viên này có 7 vị Tổng Bộ Trưởng, 2 Thứ Trưởng, 8 Tổng Giám Đốc, và 6 Giám Đốc, nhiều nhất ở các Bộ Công Chánh, Nông Nghiệp và Tài Chánh. Phần còn lại là chuyên viên, nhiều nhất ở lãnh vực Nông Nghiệp, kế đến Tài Chánh, Công Chánh và Giáo dục.

Cơ quan tài trợ các chuyên viên VN nhiều nhất là Ngân Hàng Thế Giới, kế đến USAID, Viện trợ Pháp, Cộng Đồng Âu Châu, v.v.

Các quốc gia Phi Châu được nhận trợ giúp từ chuyên viên Việt Nam là các quốc gia nằm giữa 2 vĩ độ 20º Bắc và 20º Nam, đặc biệt nhiều nhất là các quốc gia tập trung ở vùng xích đạo, từ vĩ độ 10º Bắc đến 10º Nam. Đây là các quốc gia nghèo và lạc hậu nhất, sống nhờ nông nghiệp là chánh.

Lãnh vực nông nghiệp có nhiều chuyên viên VN nhất và cũng được các cơ quan tài trợ nhiều nhất. Các lãnh vực tài chánh, công chánh cũng có mục đích chánh là hổ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp ở các quốc gia này.

Thời gian chuyên viên VN có mặt nhiều nhất ở Phi Châu là từ 1975 đến 1990, nghĩa là sau khi họ vừa trốn thoát khỏi VN.

Trong lãnh vực nông nghiệp, trước đây đa số nông dân Phi Châu canh tác lúa rẫy (upland rice) với các giống lúa địa phương, thuộc loài lúa Phi Châu (Oryza glaberrima), năng xuất thấp, canh tác nhờ nước mưa, nên chỉ một mùa/năm, cho năng xuất tối đa 2-3 t/ha. Có thể nói là toàn bộ lãnh đạo của Bộ Canh Nông thời Đệ nhị Cộng Hòa đã dời qua Phi Châu sau 1975, từ Ông Bộ Trưởng, Thứ Trưởng, Tổng Giám Đốc, hầu hết các Giám Đốc, và chuyên viên các ngành từ Khuyến Nông, Chăn nuôi, lúa gạo, nông cơ, thủy nông, v.v. Họ đã mang vào Phi Châu cuộc “cách mạng xanh” (green revolution) mà họ đã thành công ở Việt Nam từ giữa thập niên 1960s đến 1975. Họ du nhập vào Phi Châu kỹ thuật mới canh tác lúa nước (irrigated rice) áp dụng cho lúa cao năng “Thần Nông” của các giống lúa cải thiện Á Châu (Oryza sativa), các biện pháp thủy nông, phân bón, cơ giới hóa, bảo vệ mùa màng, tổ chức nông dân, tín dụng, v.v. Nhờ vậy nông dân Phi châu bắt đầu làm quen với lề lối canh tác mới, 2 hay 3 vụ lúa một năm, có nơi đưa năng xuất lên trên 20 t lúa/năm. Ngoài ra, phát triển hạ tầng cơ sở để phát triển kinh tế, cũng như lãnh vực tái thiết sau chiến tranh / xung đột của nhiều quốc gia Phi Châu cũng do chuyên viên VN đóng góp nhiều nhất.

Để phát triển đất nước giàu mạnh, ngoài tài nguyên thiên nhiên và vốn liếng tài chánh dồi dào, cần phải có nhân sự tài giỏi điều hành. Chính phủ sáng suốt phải biết xử dụng liên kết các nguồn tài lực này. Vì vậy, trên thế giới, ở bất cứ quốc gia nào, chuyên viên cũng vẫn được xem là một “tài sản” quý giá, được trân trọng giữ gìn, phát triển, để đất nước tiến bộ nhanh chóng. 

Nhật Bản, Anh Quốc, Singapore, vốn không có tài nguyên thiên nhiên, nhưng đã biết đầu tư vốn liếng nhân sự và tạo môi trường thuận lợi cho họ, nên đã trở thành cường thịnh.

Hoa Kỳ, nhờ tài nguyên phong phú, nhờ chế độ ưu đải chuyên viên, không những cho công dân Hoa Kỳ, mà còn ưu đải đặc biệt chuyên viên tài giỏi nước ngoài, nên đã lôi cuốn hầu hết các chuyên viên ưu tú của Châu Âu và các châu lục khác vào Hoa Kỳ. Vì vậy, không ngạc nhiên Hoa Kỳ lãnh đạo thế giới về khoa học, kỹ thuật và nhiều lảnh vực khác. Ngay cả ở các nước đang phát triển, còn nghèo, vẫn có chế độ ưu đải chuyên viên cùng với biện pháp ngăn chận “thất thoát trí nảo” (brain drain).

Việc đào tạo thành một chuyên viên tài giỏi rất tốn kém và cần nhiều thời gian.  Để đào tạo thành một chuyên viên cấp đại học (BSc) tối thiểu phải 4 năm đại học. Muốn có cấp MSc, phải trải thêm 2 năm học tập. Muốn có PhD, phải trải thêm tối thiểu 3 năm hay hơn. Như vậy, phải trải khoảng 10 năm học liên tục sau bậc trung học mới có PhD. Có bằng cấp chưa đủ để phụng sự hữu hiệu, cần phải có kinh nghiệm thâu đạt được, muốn vậy một chuyên viên có khả năng và kinh nghiệm cũng cần có thời gian thêm 5 năm tối thiểu nữa.

Sau chiến tranh, để tái thiết đất nước, thay vì tận dụng hàng ngàn chuyên viên tài giỏi tự nhiên có trong tay mà đa số được đào tạo ở những đại học nổi danh trên thế giới, chế độ mới ngay sau khi tiếp thu đã thi hành chính sách bạc đải, hạ nhục và đưa vào trại cải tạo. Vì vậy, họ đành phải liều chết lìa bỏ quê hương để tìm cuộc sống mới ở quê người, nơi tài năng họ sẽ được xử dụng và nhân phẩm họ được tôn trọng. Ngày nay, 35 năm sau chiến tranh, mặc dầu với tài nguyên thiên nhiên phong phú Việt Nam vẫn còn nghèo và lạc hậu. Nếu lấy PPP (Purchasing  Power Parity – Đồng giá sức mua, tính theo US Dollar) của GDP (Gross domestic product) đầu người để so sánh, thì năm 2009 Việt Nam ($2,900) còn lẹt đẹt ở thứ hạng 135 trong số 193 quốc gia trên thế giới, kể từ nước có mức sống giàu nhất (Liechtenstein $122,100, một tiểu quốc nằm giữa nước Austria và Thụy sĩ) đến nghèo nhất (Zymbabwe $200). So với Châu Phi, thì Việt Nam ($2,900) còn nghèo hơn 14 nước (Equatorial Guinea $36,000; Libya $15,200; Gabon $13,700; Bostwana $12,100; South Africa $10,100; Angola $8,900; Tunisia $8,000; Algeria $7,000; Namibia $6,100; Egypt $6,000; Morocco $4,600; Swaziland $4,400; Congo Republic $4,100); Cape  Verde $3,400), trong số này ngày trước người Việt thường chê là “Lính Lê Dương”, “Tây Đen Rạch Mặt” (Tunisia, Algeria, Morocco) hay “Ăn Tết Congo”.  Nước Angola, vốn một thời theo Xã hội chủ nghĩa, cũng bị chiến tranh tàn phá trong 27 năm, nay có PPP gấp 3 lần Việt Nam. So với các nước Đông Nam Á, thì Việt Nam ($2,900) chỉ hơn Burma ($1,100),  Cambodia ($1,900) và Lào ($2,100), nhưng thua xa Singapore ($50,300), Brunei ($50,100), Malaysia ($14,800), Thailand ($8,100), và thua cả Indonesia ($4,000) và Philippines (US$ 3,300).

            Thật đáng tiếc cho một cơ hội lịch sử!

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

CIA The World Factbook: https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/

CẢM TẠ: Tác giả chân thành cảm tạ các vị (*) đã cung cấp tư liệu cá nhân và đồng thời cung cấp danh tánh đồng nghiệp hay thân hữu có thời gian làm việc ở Phi Châu. Tác giả đồng thời cũng xin các vị có tên trong danh sách (không có *) tha lỗi vì không biết địa chỉ để liên lạc, vì vậy có thể có những sai lầm.

June 25, 2010.

TS Trần Đăng Hồng, PhD

Nguồn: Những bài cùng tác giả @ vietsciences.free.fr/

Leave a comment