Cải Cách Điền Địa thời Việt Nam Cộng Hòa


Cải Cách Điền Địa thời Việt Nam Cộng Hòa

Source: © Wikipedia

NNQ Sưu tầm & Post on Aug 28th, 2020

trai-phieu-ccdd-1970
Trái phiếu Cải cách Điền địa cấp năm 1970, © wiki-img

Cải cách điền địa là tên gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình Cải cách nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở xuống phía Nam) từ 1954-1975 sau Hiệp định Genève do Việt Nam Cộng hòa thực hiện.

Cải cách lần 1 (Thời Đệ nhất Cộng hòa)

Trong hai năm 1955 – 1956, chính phủ Mỹ đã cử một phái đoàn cố vấn do W. Ladejinsky (một chuyên gia về cải cách điền địa đã từng giúp Tổng thống Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách điền địa ở nước Đài Loan – tức Trung Hoa Dân Quốc) sang miền Nam Việt Nam giúp Chính phủ Việt Nam Cộng hòa soạn thảo chính sách ruộng đất. Báo Công Luận ra ngày 7 tháng 7 năm 1969 cho biết từ năm 1955 đến năm 1960 Mỹ đã viện trợ 12 triệu USD cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa để thực hiện chính sách trên.

Miền Nam Việt Nam đã thực hiện chính sách tư hữu hóa ruộng đất cho các tá điền qua công cuộc Cải Cách Điền Địa do Tổng thống Ngô Đình Diệm thực hiện trong những năm 1955-1963. Hai văn bản chủ yếu là Dụ số 2 (thông qua ngày 8 tháng 1 năm 1955) và Dụ số 7 (thông qua ngày 5 tháng 2 năm 1955) quy định chính sách giảm tô, thu hồi ruộng đất bỏ hoang, và bảo đảm hợp đồng cho tá điền

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc đó đã bồi thường số đất bị truất hữu (tước quyền sở hữu) cho chủ điền bằng 10% tiền mặt và 90% công trái phiếu hạn 12 năm. Tá điền có quyền mua trả góp đất của chính phủ với giá tiền chính phủ bồi thường chủ điền. Vốn và lãi trả trong vòng 12 năm với lãi suất 3%-năm. Diện tích đất tối đa một người nông dân được mua là 5 ha.

Theo tạp chí Chấn Hưng Kinh Tế[12] đã thống kê như sau:

  • Diện tích truất hữu (2035 chủ điền) = 430.319 ha (chiếm 94%)
  • Diện tích đã được bồi thường = 340.744 ha
  • Diện tích có đơn xin mua = 297.018 ha
  • Diện tích đã cấp bán (123.193 tá điền) = 345.851 ha
  • Diện tích mua trực tiếp của chủ điền (2857 tá điền) = 6.362 ha
  • Diện tích mua của điền chủ Pháp = 220.842 ha (Thỏa ước Việt-Pháp ngày 10/9/1958)
  • Số tiền bồi thường bằng chi phiếu = 165.497.567 đồng
  • Số tiền bồi thường bằng trái phiếu = 1.195.380.000 đồng

Cải cách lần 2 (Thời Đệ Nhị Cộng hòa)

Ngày 8/10/1965, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, tướng Nguyễn Văn Thiệu ký Sắc Luật 020/65 để sửa đổi Dụ 57, “cấp quyền sở hữu thiệt thọ cho nông dân mua ruộng truất hữu”. Đúng một năm sau, ông ký Sắc Luật số 021/66 “cấp quyền thực trưng vô thường trên những sở đất thuộc công sản Quốc gia tại các Dinh điền và Trại định cư cho những người đang thực sự khai khẩn”[17].

Ngày 25 tháng 8 năm 1969, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra dự luật để quốc hội thảo luận, trong đó việc rút bớt ruộng đất để lại cho địa chủ xuống còn 15 ha ở Nam phần, 5 ha ở Trung phần và cấp không 1,5 triệu ha ruộng lúa cho hơn 80 vạn nông dân.[19] Tháng 9/1967, Hạ viện thông qua sau đó Ủy ban Canh Nông Thượng viện xem xét và tu sửa lại. Cuối cùng cả lưỡng viện đều thống nhất chuẩn y chính sách Người cày có ruộng[17].

Ngày 9 tháng 9 năm 1969, thì Nixon phái Richard I. Hogh, một chuyên gia về phát triển nông thôn châu Á, cùng với 35 chuyên viên người Việt và Mỹ sang Sài Gòn trực tiếp cố vấn chương trình cải cách điền địa. Ngoài 40 triệu Mỹ kim (tương đương 11 tỷ đồng Việt Nam Cộng Hòa) bỏ ra thì chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa còn bỏ ra 178 triệu đồng để chi cho việc soạn thảo luật “Người Cày Có Ruộng”.

Từ tháng 8 năm 1969 đến tháng 3 năm 1970, sau một thời gian tranh luận khá gay go trong Quốc hội vì nhiều dân biểu là địa chủ không muốn bị truất hữu, cuối cùng thì đạo luật được Thượng viện thông qua ngày 6 tháng 3 năm 1970 và Hạ viện chung quyết ngày 16 tháng 3 năm 1970. Ngày 26 tháng 3 năm 1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký tại Cần Thơ sắc lệnh số 003/60 ban hành luật “Người Cày Có Ruộng”. Ông nói: “Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi.”[20] Ngày ban hành luật “Người Cày Có Ruộng” được coi là ngày nghỉ lễ toàn quốc.[21]

Tính đến năm 1973 thì hơn một triệu ha ruộng đã được chuyển sang quyền sở hữu của hơn 850.000 tá điền.[17][25] Chương trình đã hủy bỏ được quy chế tá điền tồn tại nhiều thế kỷ[17].

Người Mỹ ủng hộ việc cải cách điền địa của Việt Nam Cộng Hòa. Cơ quan viện trợ Mỹ USAID là nguồn hỗ trợ một phần tài chính và kỹ thuật cho chương trình này[17].

Đối với luật “Người Cày Có Ruộng”, Tổng thống Thiệu cho lập ra nhiều Ủy ban cải cách điền địa từ huyện đến xã. Các ủy ban này có nhiệm vụ kê khai ruộng đất canh tác của nông dân, ruộng đất thuộc sở hữu của địa chủ. Căn cứ vào số liệu do các Ủy ban Cải cách Điền địa thu thập được, Việt Nam Cộng hòa cấp chứng khoán để xác nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. Những ai không kê khai ruộng đất hoặc không nhận chứng khoán thì ruộng đất sẽ bị tịch thu và xem như có hành động ngăn cản việc thi hành người cày có ruộng. Những hành động này sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm và phạt tiền từ 20.000 đến 200.000 đồng (Điều 17, chương 5 luật “Người Cày Có Ruộng”).

Cùng với việc cải cách điền địa, Việt Nam Cộng hòa cũng thực hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp – nông thôn như phổ biến giống lúa mới IR-8 (lúa Thần nông) được Viện Nghiên cứu Lúa Gạo Quốc tế (International Rice Research Institute – IRRI) ở Phi Luật Tân phát minh. Đồng thời Việt Nam Cộng hòa cũng thành lập một số ngân hàng phát triển nông thôn như năm 1967 thành lập Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp (Agricultural Development Bank of Vietnam – ADBV) thay Quốc gia Nông Tín Cuộc, năm 1969 thành lập Ngân hàng Nông thôn.[17]

Kết quả chương trình “Người Cày Có Ruộng” theo số liệu của Tổng nha Điền Địa (tính đến ngày 15/7/1974):[27]

  • Toàn miền Nam cấp phát = 1.290.949 ha
  • Đồng bằng sông Cửu Long = 1.154.371 ha (ruộng tư 1.099.382 ha; ruộng công 54.989 ha)
  • Chứng thư cấp đất = 693.258 chứng thư
  • Số tiền bồi thường = 151 tỷ đồng (số liệu 26/4/1974)

Luật “Người Cày Có Ruộng” không hề đụng chạm đến ruộng đất của tôn giáo nên ngay sau năm 1975, các tôn giáo còn sở hữu rất nhiều ruộng đất. Phật giáo, Hòa Hảo và Cao Đài còn chiếm không đáng kể, nhưng đáng chú ý nhất là sự sở hữu lớn của các nhà thờ Thiên chúa giáo. Nhà thờ Cầu Ngang (huyện Tiểu Cần, Cửu Long) sở hữu 529 ha, nhà thờ Bãi Sang (huyện Càng Long, Cửu Long) sở hữu 432 ha, nhà thờ Bình Hạnh Đông (huyện Phú Tân, An Giang) sở hữu 570 ha. Ở tỉnh Long Châu Hà cũ, trong tổng số ruộng đất canh tác của tỉnh, tôn giáo chiếm 5% (7.848 ha) trong đó Thiên chúa giáo chiếm 7205 ha.[20]

chung-thu-so-huu-luat-NCCR-VNCH
Chứng thư cấp quyền sở hữu ruộng đất, © vietstamp.net

Nguồn: @ Wikipedia – Tiếng Việt


Ý Kiến về “Người Cày Có Ruộng”

© Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng
Source:© BBC Tiếng Việt

NNQ Sưu tầm & Post on Aug 22nd, 2020

tt-thieu-cong-bo-luat-nccr

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (trái) công bố luật Người Cày Có Ruộng. Bản quyền hình ảnh SAIGON ARCHIVES

* * *

Ý kiến nói đạo luật về “Người Cày Có Ruộng” và kết quả cải cách điền địa là một điểm sáng chói trong sự nghiệp lãnh đạo của cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Ngày Tổng thống Thiệu ra đi (29/9/2001), ông đã mang xuống tuyền đài bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu nỗi buồn. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng ông cũng đã mang theo một sự yên ủi vô biên, một niềm vui cuối cùng của cuộc đời. Đó là sự thành công trong lãnh vưc kinh tế, xã hội. Đạo luật về “Người Cày Có Ruộng” và kết quả (tương đối là tốt đẹp) về cải cách điền địa là một điểm sáng chói trong sự nghiệp lãnh đạo của ông. Ảnh hưởng của nó vào đời sống người nông dân là một thành quả lớn lao của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.

Truyền thông Mỹ không bao giờ bình luận về khía cạnh tích cực này cũng như thành tích “5 Năm Vàng Son, 1955-1960” của Đệ Nhất Cộng Hòa (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, chương 13). Mỗi khi đề cập tới Việt Nam thì chỉ là “Vietnam War”, như ta đang xem phim tài liệu dài 18 giờ do Ken Burns thực hiện. Đài PBS bắt đầu chiếu phim này từ ngày 19/9/2017. Thật là một sự trùng hợp: chi khoảng hai tuần sau, New York Historical Society lại có một triển lãm lớn tại bảo tàng ở số 170 Central Park West, NYC từ ngày 4/10/2017 tới 22/4/2018, với cùng chủ đề “Vietnam War”.

Hội chứng Việt Nam đã trở thành một phần của lịch sử Hoa Kỳ, được giảng dạy ở các đại học, nhưng cũng chỉ nhắm vào Vietnam War, với cái nhìn của người Mỹ, dù luôn nói rằng “với góc độ từ mọi phía tham gia cuộc chiến”. Chắc chắn rằng cuốn phim do PBS trình chiếu cũng như hình ảnh tại triển lãm ở New York sẽ không bao gồm – dù chỉ một ít – hình ảnh nói lên những xây dựng của VNCH ngay giữa một cuộc chiến hoang tàn.

Cho nên, nhân dịp ngày giỗ TT Thiệu (29/9/2017), chúng tôi nhắc lại kỷ niệm người cày có ruộng để phần nào vinh danh người quá cố (xem Tâm Tư Tổng thống Thiệu, chương 22).

Tấc đất tấc vàng

Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân ta là làm sao có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần nước thì là vàng. ‘Đất Nước tôi’: đất và nước. Chỉ có người Việt Nam ta mới dùng hai chữ này để chỉ quê hương, tổ quốc mình. Một lý do là vì đại đa số nhân dân chỉ sinh sống loanh quanh ở những vùng đất ven sông. Lúc đầu con cháu Văn Lang, Âu Lạc đã kéo nhau tới vùng đồng bằng sông Hồng Hà. Tới thời Nam tiến thì vào vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tính ra thì tới 75% dân số Miền Bắc sinh sống ở đồng bằng sông Hồng và 75% nhân dân Miền Nam, ở đồng bằng Cửu Long.

Cải cách điền địa

Từ ngày lập quốc, tổ tiên ta đã để ý tới việc phân chia ruộng đất, làm sao cho đa số người dân được chia sẽ đất đai. Tới năm 207 trước Tây nguyên, theo phép tỉnh điền của Tầu, Triệu Đà đã phân chia đất đai: mỗi mảnh đất được chia làm 9 lô: lô ở giữa thuộc công điền, còn lại thì phân chia cho 8 gia đình, họp lại là một “tỉnh” (tsing). Dần dần, vua chia cho mỗi thanh niên 100 mẫu (‘meou’) tương đương 3,600 mét vuông để canh tác. Khi tới 60 tuổi thì phải trả lại để chia cho người khác. Nhờ không có tích lũy đất đai nên sự cách biệt giầu nghèo không quá lớn, công bình xã hội thời ấy đã tiến bộ xa hơn ở nhiều quốc gia khác.

Đến đời vua Trần Thuận Tôn (năm 1388) thì có chiếu ấn định không người dân nào được sở hữu quá 10 mẫu. Dưới triều Nguyễn, các vua Gia Long, Minh Mạng đều làm luật cải cách điền địa. Nổi tiếng là Sứ thần đặc trách Phát triển Nông thôn tên là Nguyễn Công Trứ, ông có công lớn biến đổi vùng đất hoang vu miền duyên hải gồm Ninh Bình, Nam định, Hải Dương thành đất canh tác và phân chia cho nông dân (trong đó có gia đình của tác giả).

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa

Tổng thống Ngô Đình Diệm cố gắng cải cách ruộng đất trong điều kiện chính trị, kinh tế thật khó khăn vào lúc mới thành lập nền Cộng Hòa. Ông đã mạnh dạn ký Dụ số 57 (tháng 10, 1956) nhằm khởi sự một cuộc cách mạng ruộng đất, nhắm vào nhiều lãnh vực: cải tổ quy chế tá điền, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, dinh điền, để cho dân khai thác; khuyến khích chủ điền tự ý phân chia điền sản để bán cho tá điền rồi chính phủ giúp nông dân tín dụng để mua đất. Thành quả của bước đầu đang được gặt hái trong “Năm Năm Vàng Son” (Xem Chương 13, Khi Đồng Minh Nhảy Vào) thì ông bị sát hại năm 1963. Trong hai năm tiếp theo, tình hình chính trị Miền Nam thật nhiễu nhương, làm mất đi cái đà của những tiến bộ kinh tế và xã hội, trong đó có sự dán đoạn của công cuộc cải cách điền địa.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa

Vừa lên chức Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Tướng Thiệu ký ngay Sắc Luật 020/65 ngày 8 tháng 10, 1965 để sửa đổi Dụ 57, “cấp quyền sở hữu thiệt thọ cho nông dân mua ruộng truất hữu.” Cùng một ngày vào năm sau, ông ký Sắc Luật số 021/66 “cấp quyền thực trưng vô thường trên những sở đất thuộc công sản Quốc gia tại các Dinh điền và Trại định cư cho những người đang thực sự khai khẩn.” (Chúng tôi may mắn sưu tầm được bản gốc của cả hai sắc luật này và in trong cuốn Tâm Tư TT Thiệu, trang 472-473).

Trong một chuyến đi Miền Tây vào tháng 2, 1966, ông tuyên bố ở Ba Tri (tỉnh Bến Tre) là ông không đồng ý với việc chính phủ cứ khư khư giữ đất lại. Ông tuyên bố: “Đất đai phải thuộc về người trồng cấy.” Chương trình được đại sứ Mỹ Bunker hết sức ủng hộ.

Hai trở ngại lớn và biện pháp giải quyết

Ngay từ ban đầu, nỗ lực cải cách điền địa đã gặp phải hai trở ngại lớn từ hai phía Mỹ, Việt.

Về phía Mỹ, cơ quan viện trợ USAID là nguồn hỗ trợ một phần tài chính và kỹ thuật cho chương trình này thì lại thiếu nhất quán về vấn đề ‘quyền tư hữu đất đai.’ Có hai trường phái: một trường phái cho rằng người nông dân Việt Nam đã quen với truyền thống tá điền, không hiểu nhiều và cũng không đặt vấn đề sở hữu đất, miễn sao chính phủ giúp cho họ ổn định, giữ được khế ước cho lâu dài, không tăng tô (tiền thuê đất) là được rồi, việc phân chia đất làm sở hữu sẽ đưa lại nhiều vấn đề rắc rối. Trường phái thứ hai thì có ý kiến ngược lại: sở hữu đất là quan trọng nhất và có ý nghĩa sâu xa đối với nông dân. Theo quan điểm này, ý niệm về công bình xã hội phải gắn chặt với việc người nông dân được sở hữu một miếng đất. Chế độ tá điền dù được hoàn thiện tới bao nhiêu cũng không thể thay thế được mục tiêu này.

Để đi tới một kết luận cho vững chắc, Viện Nghiên Cứu Stanford (Stanford Research Institute gọi tắt là SRI) của Đại học Stanford được USAID thuê để nghiên cứu thật sâu vấn đề này trong hai năm 1966-1968, dùng những kỹ thuật tân tiến để trắc nghiệm thái độ và quan niệm của nông dân. Kết quả trắc nghiệm cho thấy thật rõ ràng: người dân ước mong làm sở hữu mãi mãi một miếng đất. Đối với một nông dân sống trong mái nhà tranh, trên một mảnh đất khoảng 1/3 mẫu, làm sao có được một vài sào ruộng để canh tác là giấc mơ. Miếng đất ấy sẽ nối kết quá vãng, hiện tại và tương lai. Nó nối kết tổ tiên với con, với cháu. Rồi lúc người nông dân về già, không còn canh tác được nữa thì lấy gì mà sống? Vì hết còn làm tá điền, phải trả đất lại cho ông phú nông thì chỉ còn trông mong vào con cái. Chúng nó mà lờ đi thì hết đường vì đâu có ‘savings’ (tiền tiết kiệm) hay “social security”.

Về phía Việt, trở ngại lớn nhất là sự chống đối của các đại điền chủ. Ruộng đất miền Đồng Bằng Cửu Long có một đặc tính hãn hữu: đó là nó tập trung quá nhiều vào vài ngàn điền chủ lớn. Ngay từ cuối Thế kỷ 19, dân gian ta đã có câu nói về tứ đại phú: “Nhất Sỹ, nhì Phương, ba Xường tứ Định.” Người thứ tư là Định thì sau này có thay đổi thành “tứ Hỏa” (hay Chú Hỏa), rồi “tứ Bưởi” (Bạch Thái Bưởi). Nhưng người thứ nhất là Sỹ, tức Huyện Sỹ (người xây nhà thờ Huyện Sỹ, bà con với Nam Phương Hoàng hậu) thì không bao giờ thay đổi. Đây là bốn đại đại gia sở hữu nhiều ruộng đất nhất, nằm sát nhau, trải ra thành những cánh đồng xanh tươi “thẳng cánh cò bay” ở Miền Tây, trông thật ngoạn mục.

Trong bối cảnh ấy, cải cách điền địa nhằm giới hạn quyền sở hữu đất đai là một việc hết sức khó khăn. Tuy nhiên, chính phủ đã thuyết phục được các địa chủ bằng ba cách: thứ nhất là tranh đấu được sự ủng hộ của đại đa số nông dân (qua đài phát thanh, truyền đơn, hội thảo) và dùng kết quả để thuyết phục chủ đất; thứ hai, bồi thường khá xòng phẳng bằng cách mua lại đất để phân chia cho nông dân. Tài trợ việc mua đất bằng một sáng kiến: bán công khố phiếu (hay trái phiếu chính phủ) với lãi xuất hấp dẫn 10% một năm cho địa chủ, phần còn lại thì trả bằng tiền mặt. Thứ ba, có một yếu tố thuận lợi khác nữa: trong cái rủi cũng có cái may: đó là vì tình hình thiếu an ninh ở một số khu vực nông thôn, điền chủ cũng dễ dàng hơn trong việc chấp nhận nhường ruộng lại cho chính phủ.

Chọn An Giang làm thí điểm

Sau khi vượt được cả hai trở ngại, công cuộc cải cách điền địa tiến tới những bước đi thật dài. Tháng 1, năm 1967: TT Thiệu đề nghị chọn An Giang làm nơi thí điểm. Ở vùng đồng bằng Cửu Long (rộng trên 37 ngàn cây số vuông, với dân số gần 7 triệu người – 34% dân số Miền Nam), An Giang là tỉnh đông dân thứ nhì (1.4 triệu người với mật độ rất cao: 341 người một cây số vuông), chỉ sau Hậu Giang (1.9 triệu người, mật độ 372 người).

Kinh nghiệm An Giang được áp dụng ngay vào hai tỉnh Chương Thiện, và Kiến Tường rồi lan ra những tỉnh khác. Tháng 7, 1969 TT Thiệu đệ nộp Quốc Hội đạo luật ‘Người Cày Có Ruộng’. Thoạt đầu, Hạ Viện thông qua (vào tháng 9), nhưng dự thảo luật vẫn được tranh luận rộng rãi. Ủy Ban Canh Nông Thượng Viện xem xét và tu sửa lại. Sau cùng cả lưỡng viện đều thống nhất theo đúng tinh thần dân chủ.

“Người Cày Có Ruộng”

Ngày 26/3/1970 là ngày quan trọng, được chỉ định là ‘ngày lễ nghỉ toàn quốc’. Hôm đó, trong một nghi lễ long trọng ở vùng Đồng bằng Cửu Long, Tổng thống Thiệu ký thành Luật ‘Người Cày Có Ruộng.’ Luật có những quy định chính như sau:

  • Hủy bỏ quy chế tá điền;
  • Phân chia công điền, công thổ;
  • Giới hạn mỗi điền chủ chỉ được canh tác một diện tích không quá 15 mẫu; trên số đó là phải bán cho chính phủ để tái phát cho nông dân;
  • Ưu tiên dành cho người trực tiếp canh tác đất đai truất hữu;
  • Đền bù cho chủ đất thật nhanh và tương đối là công bằng: 20% bằng tiền mặt; 80% bằng công khố phiếu với 10% lãi suất trong 8 năm (có thể dùng để chuyển nhượng, thế chấp vay ngân hàng, cầm cố).

Điều quan trọng nhất của chương trình là đã hủy bỏ được quy chế tá điền từ bao nhiêu thế kỷ, giải phóng được tâm lý người nông dân luôn phải làm thuê cấy mướn.

Cải tiến kỹ thuật và tín dụng để hỗ trợ nông dân

Tuy là có ruộng, nhưng diện tích phân chia cho nông dân rất nhỏ nên đòi hỏi phải làm thể nào để giúp tăng năng xuất. Từ thời Tổng thống Diệm nhiều loại giống lúa mới đã được nhập vào. Nhưng từ 1967 thì có sự cải tiến kỹ thuật vượt mức với nỗ lực gọi là , ‘Cuộc cách mạng xanh’ – nhập loại giống lúa mới IR-8 vừa được Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế (International Rice Research Institute – IRRI) ở Phi Luật Tân phát minh.

TT Thiệu cho thử nghiệm loại này ở Võ Đạt (còn gọi là Xã Võ Đất), tỉnh Phan Thiết (bây giờ là Bình Thuận), vì nông dân ở đây vừa bị mất cả một vụ lúa do trận lụt lớn. Thử nghiệm thành công ở Võ Đạt chẳng mấy lúc đã được lặp lại ở Long Định (Mỹ Tho) và Bến Lức (Long An), rồi lán ra thật nhanh tới khắp Đồng bằng Cửu Long. Nông dân nơi nơi phấn khởi áp dụng giống lúa mới, gọi nó là ‘lúa thần nông’.

Bây giờ, có ruộng, có lúa thần nông rồi, nhưng nông dân lấy tiền đâu mà mua lúa giống, máy cày, xăng nhớt, phân bón, thuốc sát trùng. Vấn đề này được giải quyết một phần qua chương trình tăng tín dụng nông thôn. Năm 1967 Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp được thành lập (Agricultural Development Bank of Vietnam – ADBV) thay Quốc Gia Nông Tín Cuộc.

Năm 1969 cũng là năm thành lập các Ngân hàng Nông thôn (Rural Banks). Tới 1972 thì ngân hàng này đã có mặt tại tất cả 44 tỉnh. Tới cuối 1973 đã có tới 64 ngân hàng và kế hoạch là tới 1980, sẽ mở chi nhánh hoạt động ở tất cả 250 quận của 44 tỉnh.

Với số tín dụng, nông dân có thể mua phân bón, đồ ăn gia súc, thuốc sát trùng, máy bơm nước đáp ứng đòi hỏi của lúa thần nông, ‘gia súc thần nông.’ Sản ngạch tăng, ở nhiều nơi nông dân còn thặng dư gạo bán ra, mua được xe gắn máy, gọi là “Honda Rice”.

Ngày Vui Vô Biên Của TT Thiệu

Cuộc cải cách điền địa đã thành một ‘cuộc cách mạng ruộng đất,’ hỗ trợ mục tiêu xây dựng công bình xã hội. Ảnh hưởng của nó đã làm cho chương trình Phát Triển Nông Thôn có nhiều tiến bộ. Lúa Thần Nông tăng năng xuất; tín dụng nông thôn giúp mua phân bón, máy cày.

Hạn chót phải thúc đẩy động lực sản xuất qua chương trình ‘Người Cày Có Ruộng’ là ngày 26 tháng 3, 1973. Vào ngày này, TT Thiệu nhận được báo cáo như sau. Báo cáo này được thẩm định kỹ càng bởi cả hai bên Việt-Mỹ:

Mục tiêu của “Người Cày Có Ruộng” là phân phát khoảng trên một triệu mẫu cho gần một triệu nông dân. Kết quả là gần 1.2 triệu mẫu được cấp phát cho gần một triệu nông dân. Tính theo mỗi gia đình trung bình là 4 người, số người được hưởng là gần 4 triệu, tức là 20% tổng dân số:

tt-thieu-cong-bo-luat-nccr

Kết quả chương trình người cày có ruộng. Bản quyền hình ảnh OTHER

Như vậy, ngày 26/3/1973 phải là ngày vui nhất của TT Thiệu. Sau này, khi có dịp nhắc lại những kỷ niệm về người cày có ruộng, về lúa thần nông, Ba Tri, Võ Đạt, chúng tôi thấy ánh mắt ông vui hẳn lên. Rồi ông vui cười, kể lại nhiều chuyện của ông về nông thôn và về nghề đánh cá ở Phan Rang, khác hẳn với khuôn mặt u sầu khi ông hồi tưởng về những chuyện chiến sự.

Bài học cho các nước khác

  1. Điều đình với cả điền chủ lẫn nông dân để có sự hơp tác tương đối giữa hai bên như một phương án “teamwork.” Công việc này đòi hỏi
    • (i) phải tiên đoán và tìm giải pháp cho các tắc nghẽn trong từng chặng đường của chương trình; và
    • (ii) giải quyết các tranh chấp cho kịp thời, công bình giữa điền chủ và nông dân cũng như giữa nông dân với nhau (như tranh tụng về ranh giới ruộng).
  2. Đền bù điền chủ tương đối cho xòng phẳng. Giá đất cũng phải xấp xỉ bằng giá thị trường. Nếu như chưa có thị trường đất đai thì ít nhất tại mỗi địa phương cũng đã có những mua bán lẻ tẻ có thể dựa vào để làm hội thảo định giá;
  3. Đài thọ 80% tiền bồi thường bằng cách bán công khố phiếu (trái phiếu kho bạc) cho điền chủ với lãi xuất hấp dẫn. Phần còn lại (20%) thì trả bằng tiền mặt; và
  4. Đáp ứng nhu cầu canh tác của nông dân về “đầu vào” (inputs) như kỹ thuật, tín dụng để họ thực sự trở nên người chủ đất (chứ không phải đem đất đi bán lại!).

Nước láng giềng của Việt Nam là Thái Lan đã tiếp nhận được một số kinh nghiệm này và tiến tới Agricultural Land Reform Act 1975 (Luật đất đai 1975). Cùng năm ấy, bên Phi Châu còn có những nước như Ethiopia tuyên dương Land Reform Program 1975; Uganda với sắc luật Land Reform Decree 1975.

© Nguyễn Tiến Hưng | September 24, 2017

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).

Thân mời đọc thêm @ BBC – Tiếng Việt


Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế – IRRI

© Kỷ sư Hồ Đình Hải
Source: Nông Nghiệp Thế Giới

NNQ sưu tầm & post on Aug 23, 2020

vien-nghien-cuu-lua-gao-quoc-te-irri

The International Rice Research Institute. Ảnh © nongnghiepthegioi

Viện Nghiên cứu lúa quốc tế IRRI (The International Rice Research Institute) là một Tổ chức quốc tế phi chính phủ. Trụ sở chính đặt tại Los Banos, Laguna, Philippines.

1. Giới thiệu về Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế IRRI

Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế IRRI (The International Rice Research Institute) là một Tổ chức quốc tế phi chính phủ. Trụ sở chính đặt tại Los Banos, Laguna , Philippines , và có văn phòng tại mười sáu quốc gia.

Viện IRRI là một trong 15 Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp trên thế giới thuộc thành viên sáng lập của Nhóm tư vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CGIAR). Đây là Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế phi lợi nhuận lớn nhất ở Châu Á.

IRRI được thành lập vào năm 1960 với sự hỗ trợ của Quỹ Ford, Quỹ Rockefeller và Chính phủ Philippines.

Mục tiêu của IRRI là:

− Xóa đói giảm nghèo thông qua cải thiện và đa dạng hóa các hệ thống dựa trên sản xuất lúa gạo.

− Đảm bảo sản xuất lúa bền vững và ổn định, tác động tiêu cực đến môi trường ở mức tối thiểu, và có thể đối phó với biến đổi khí hậu.

− Cải thiện dinh dưỡng và sức khỏe của người nghèo tiêu dùng gạo và nông dân trồng lúa.

− Cung cấp truy cập thông tin công bằng và kiến thức về lúa gạo và giúp phát triển thế hệ tiếp theo của các nhà khoa học về lúa gạo.

− Cung cấp cho các nhà khoa học về lúa gạo và sản xuất với các thông tin di truyền và vật liệu cần thiết để phát triển các công nghệ cải tiến và nâng cao sản xuất lúa gạo.

Mục tiêu chính của IRRI là nghiên cứu lai tạo các giống lúa và hệ thống canh tác nhằm làm cho nông dân trồng lúa tăng hiệu quả kinh tế và chất lượng hạt gạo cao và an toàn cho người tiêu dùng.

2. Lịch sử thành lập và phát triển của IRRI

Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI (The International Rice Research Institute) là một tổ chức phi chính phủ được thành lập vào ngày 09 tháng 12 năm 1959 bởi sự hổ trợ của Tập đoàn Ford và Quỷ Rockefeller, sau khi xây dựng cơ sở vật chất và chuẩn bị nhân sự, IRRI chính thức hoạt động từ năm 1960.

Người khởi xướng thành lập IRRI là Tiến sĩ J.George Harrar của Tập đoàn Rockefeller và chính ông là Tổng giám đốc đầu tiên của IRRI.

Hiện nay Tiến sĩ Robert Zeigler là Tổng giám đốc của IRRI, người trực tiếp quản lý và điều hành công việc của mình phù hợp với các chính sách và quyết định của hội đồng quản trị. Là Tổng Giám đốc điều hành và tham vấn chặt chẽ với Ban quản trị IRRI, ông đặt ra định hướng chiến lược của Viện. Ông cũng là một phát ngôn viên đam mê về một loạt các vấn đề có ảnh hưởng đến người trồng lúa và người tiêu dùng trên toàn thế giới.

Trụ sở và trang trại của IRRI rộng 252 ha, nằm trong khuôn viên trang trại của trường Đại học Philippines (cho thuê), tọa lạc tại vùng ngoại ô Thành phố Los Baños thuộc tỉnh Laguna của Philippines, cách thủ đô Manilia khoảng 60 km về phía Nam.

Một giống lúa lai giữa Dee-Geo-woo-gen và Peta đã được thực hiện tại IRRI trong năm 1962. Trong năm 1966, một trong những dòng giống đã trở thành một giống lúa mới : IR8. Giống lúa IR8 yêu cầu sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, nhưng cho năng suất cao hơn đáng kể so với các giống truyền thống. Sản xuất lúa gạo hàng năm tại Philippines tăng lên 3,7-7,7 triệu tấn trong hai thập kỷ 1970s và 1980s. Việc chuyển đổi sang trồng giống lúa IR8 làm cho Philippines từ một nước thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu gạo vào những năm cuối thế kỷ 20.

Ấn Độ sớm tiếp cận giống lúa IR8 của IRRI, giống này cho năng suất vượt trội khi được cung ứng đủ phân bón và trồng trong điều kiện chủ động tưới tiêu. Năm 1968, nhà nông học Ấn Độ SK De Datta công bố phát hiện của mình rằng giống lúa IR8 mang lại khoảng 5 tấn mỗi ha khi không có phân bón, và gần 10 tấn mỗi ha trong điều kiện tối ưu. Đây là giống lúa làm tăng năng suất gấp 10 lần so với các giống truyền thống ở Ấn Độ. Giống lúa IR8 là một thành công trên toàn Châu Á, và được mệnh danh là “giống lúa kỳ diệu” (Miracle rice). Giống lúa IR8 sau này cũng đã được phát triển thành giống Semi-dwarf IR36. Sau giống lúa IR8, hàng loạt các giống mới được lai tạo từ IRRI cũng ra đời, tạo bước chuyển nhảy vọt trong năng suất và sản lượng lúa của Châu Á, sau này là Châu Phi và Châu Mỹ.

IRRI đã từng nổi tiếng với những đóng góp cho ” cuộc cách mạng xanh “chuyển động trong khu vực Châu Á trong thời gian cuối những năm 1960 và 1970, có liên quan đến sự sinh sản của giống lúa “semidwarf” ít có khả năng đổ ngã. Các giống phát triển tại IRRI, được gọi là giống IR, cũng được chấp nhận ở nhiều nước Châu Á.

Năm 2005, người ta ước tính rằng 60% diện tích lúa của thế giới được trồng các giống lúa do IRRI lai tạo hoặc từ nguồn gen giống lúa của họ.

Trong năm 2010, Khoa học đối tác lúa gạo toàn cầu (GRiSP) đã được đưa ra, trong đó IRRI dẫn ở Châu Á, Trung tâm lúa gạo Châu Phi (AfricaRice) dẫn ở Châu Phi, và Trung tâm Quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới (CIAT) dẫn đầu ở Châu Mỹ Latinh. Nó nhằm mục đích “cải thiện đáng kể khả năng của nông dân trồng lúa để nuôi dân số tăng lên trong một số quốc gia nghèo nhất thế giới”.

Một báo cáo được công bố bởi Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế thuộc CGIAR trong năm 2011 đánh giá tác động của việc trồng các giống lúa của IRRI trong ba quốc gia ở Đông Nam Á từ năm 1985 đến năm 2009 đã đưa một lợi ích hàng năm là 1,46 tỷ USD và làm tăng năng suất lúa lên đến 13%.

Ngoài công tác nghiên cứu, IRRI còn là cơ quan đào tạo cán bộ khoa học liên quan đến lĩnh vực Nông nghiệp và Sinh thái nhằm cung cấp nguồn nhân lực cho các nước đang phát triển. Trong 50 năm qua IRRI đã đào tạo trên 1.000 khóa học quốc tế với trên 10.000 cán bộ khoa học tốt nghiệp hoặc chuyên tu tại IRRI với các học vị Kỹ sư, Thạc sĩ và Tiến sĩ ở 14 quốc gia thuộc khu vực Châu Á ,Châu Phi và Châu Mỹ Latin.

Hiện nay IRRI vẩn là một tổ chức phi chính phủ, tuy nhiên nguồn tài trợ được mở rộng hơn nhờ vào sự tài trợ của 24 quốc gia, trong đó tài trợ chính là Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines. Nguồn tài trợ thông qua Nhóm tư vấn nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế CGIAR (the Consultative Group on International Agricultural Research). Hàng năm IRRI nhận kinh phí từ nguồn này khoảng 33-35 triệu USD. IRRI đang kêu gọi các nguồn tài trợ mới từ các tổ chức từ thiện và đang được nguồn tài trợ của Bill and Melinda Gates Foudation.

Hoạt động nổi bật của IRRI trong 50 năm qua là xây dựng ngân hàng Gene lúa quốc tế khổng lồ với hơn 109.000 giống lúa khác nhau kể cả các giống lúa hoang dại, các giống lúa địa phương thu thập ở khắp các Châu lục và những giống lúa có chất lượng cao và dể thích nghi trên nhiều vùng sinh thái khác nhau do chính IRRI lai tạo ra. Có trên 90% sản lượng lúa thế giới đang dùng nguồn gene từ IRRI.

Hiện nay IRRI đã thành lập văn phòng đại diện ở 16 quốc gia thuộc Châu Á và Châu Phi, dự kiến tiếp tục mở rộng ở Châu Mỹ Latin. Nhiệm vụ mới của IRRI là góp phần lo cho an ninh lương thực toàn cầu trong điều kiện biến đổi khí hậu vô cùng phức tạp, trong đó có 154 triệu ha lúa nước cung cấp lương thực chính và phụ cho khoảng 3 tỷ người. Cuộc cách mạng xanh của IRRI khởi đầu từ giống lúa IR 8 cho đến hiện nay còn phải tiếp tục trên phạm vị toàn cầu, đặc biệt với các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latin.

Hiện nay IRRI có lực lượng gồm 1.300 cán bộ, công chức và công nhân kỹ thuật, trong đó 85% là người Philippines. Riêng cán bộ khoa học đầu đàn đẳng cấp quốc tế gồm 135 vị Tiến sĩ, phân nửa trong số Tiến sĩ làm việc tại IRRI thuộc các quốc gia đang phát triển như Bangladesh, Thailand, Indonesia, Trung Quốc, Sri Lanka, India, Cambodia, Malaysia và Philippines. Số còn lại thuộc các nước đang phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu và Bắc Mỹ.

Trụ sở chính của IRRI ở Philippines cũng là địa điểm của Ngân hàng gene lúa quốc tế và Bảo tàng World Rice quốc tế.

Thành tựu 50 năm hoạt động của IRRI đáng được trân trọng, nó giúp cho nông dân các nước đang phát triển xóa đói giảm nghèo, đủ gạo ăn và tiến tới khá giàu nhờ kỹ thuật trồng lúa cải tiến do IRRI lai tạo, tạo ra chuyển biến của cuộc cách mạng xanh rất lý thú trên đồng ruộng. Nông dân Việt Nam rất mang ơn các nhà khoa học IRRI.

© Kỷ sư Hồ Đình Hải
Nguồn: http://nongnghiepthegioi.weebly.com/



Luật “Người Cày Có Ruộng” Tại Miền Nam.

© Tóm lược từ bài viết của tác giả: Nguyễn Quang Duy (Melbourne, Úc Đại Lợi 25/09/2014)

Nguồn: @ Facebook. (08/12/2018)

NCCR-stamps-VNCH

Phát hành ‘Tem thư’ Người Cày Có Ruộng (© usvietnam.uoregon.edu)

Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân.

Trong khi miền Bắc phóng tay phát động cải cách ruộng đất tiêu diệt tầng lớp địa chủ thì chính quyền miền Nam liên tục tiến hành tư hữu hoá đất đai, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống nông dân.
Qua việc thu mua đất từ các điền chủ rồi bán lại hay phát cho nông dân, trước năm 1975 mọi gia đình nông dân miền Nam đều đã thật sự làm chủ mảnh đất tư hữu của mình.

Chương trình Người Cày Có Ruộng (NCCR) là một cuộc cách mạng xã hội, thay đổi tận gốc rễ nông thôn miền Nam.

Chương trình được thực hiện trong ôn hòa, dựa trên tinh thần thượng tôn luật pháp, hoà giải và hòa hợp xã hội. Một mặt tôn trọng quyền lợi của chủ đất, khôi phục và bảo vệ quyền tư hữu đất đai. Mặt khác giúp tòan thể nông dân có ruộng cày.

Thành công một phần nhờ vào sự đóng góp của Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh. Nhưng chính yếu vẫn là từ hai vị lãnh đạo miền Nam: Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thực hiện chương trình ngay khi về nước và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết tâm nối tiếp thực hiện chương trình.

Tại Cần Thơ vào ngày 26-3-1970, ngày ban hành Luật NCCR, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: “Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi.” Ông Thiệu hiểu rõ Luật NCCR không phải chỉ là thành quả của nền dân chủ nghị viện non trẻ, mà còn là một chính sách mang lại ấm no cho người dân.

Có an cư mới có lạc nghiệp. Lịch sử đã chứng minh nông dân luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh.

Tình Hình Ruộng Đất Miền Nam

Khi quân Pháp xâm chiếm nước ta, miền Nam vẫn còn nhiều vùng chưa được khẩn hoang, nhiều vùng vì chiến tranh nông dân đã phải bỏ ruộng vườn.

Lợi dụng cơ hội, một số người Pháp và người theo Pháp đã chiếm, rồi thông đồng với nhà cầm quyền Pháp hợp thức hóa quyền sở hữu đất đai họ chiếm được. Trước 1945, theo ước tính trong số 6.530 đại điền chủ (trên 50 ha đất) có 6.316 là ở miền Nam.

Năm 1945, hầu hết các đại điền chủ đều bỏ ruộng vườn về sống tại Sài Gòn hoặc các thành phố lớn. Việt Minh tịch thu ruộng đất rồi chia cho tá điền canh tác và lấy thuế.
Ở các vùng thuộc Hòa Hảo và Cao Đài, nông dân cũng tự thực hiện việc chia lại ruộng đất hoặc chấm dứt nộp địa tô cho ruộng vườn mà họ đang trồng cấy.

Năm 1949, khi người Pháp bắt đầu trao trả độc lập Cựu Hoàng Bảo Đại cho ban hành sắc lệnh về Cải cách Điền Địa (CCĐĐ), nhưng vì chiến tranh và thiếu thực quyền nên sắc lệnh này không mang lại kết quả cụ thể nào.

Sau hiệp định đình chiến Genève chia đôi đất nước, miền Nam đã trải qua 2 cuộc CCĐĐ và một số chính sách về ruộng đất.

Cải Cách Điền Địa Lần Thứ Nhất

Bước đầu của chính sách cải cách điền địa, Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho ban hành Dụ số 2 và Dụ số 7 nhằm thiết thiết lập quy chế tá canh.

Địa tô được tính không quá 25% vụ lúa thu hoạch chánh. Thời gian cho thuê được quy định là 5 năm. Tá điền và điền chủ có thể xin hủy bỏ hoặc tái ký hợp đồng.

Trường hợp ruộng đất bị bỏ hoang, ước lượng 500 ngàn ha, thì thuộc quyền sở hữu quốc gia. Chính quyền thu và cấp phát không cho tá điền.

Các tá điền trước đây theo Việt Minh được tiếp tục canh tác trên mảnh ruộng do Việt Minh cấp phát trong thời chiến. Địa tô và quyền tá canh nay được chính phủ nhìn nhận và bảo đảm.

Ngày 22-10-1956, Tổng thống Ngô Ðình Diệm cho ban hành Dụ số 57, tiến hành Chính sách CCĐĐ.

Mỗi điền chủ chỉ được quyền giữ tối đa 100 ha ruộng, trong số nầy 30 ha được phép trực canh, còn 70 ha phải cho tá điền thuê theo đúng quy chế tá canh.

Ðiền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng thiệt hại: 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt, phần còn lại được trả bằng trái phiếu trong thời hạn 12 năm, với lãi suất là 3% mỗi năm.
Ruộng bị truất hữu được bán lại cho các tá điền, mỗi gia đình được quyền mua lại tối đa 5 ha và phải trả cho nhà nước trong vòng 12 năm.

Giá tiền bán bằng với giá chính phủ trả cho chủ điền. Như vậy chủ yếu chính phủ chỉ làm trung gian trong việc chuyển nhượng quyền tư hữu đất đai.

Chiếu theo Dụ số 57, chính phủ truất hữu 430.319 ha đất từ 1.085 đại điền chủ.

Ngày 11-9-1958, Chính phủ còn ký kết Hiệp Ðịnh Việt Pháp, truất hữu thêm 220.813 ha ruộng đất của Pháp kiều. Như vậy, tổng số diện tích đất đai được truất hữu là 651.182 ha.

Số ruộng được truất hữu được giao cho 123.198 tá điền. Ngoài ra còn có 2.857 tá điền khác đã trực tiếp mua lại đất của các đại điền chủ.

Một số ruộng truất hữu cũng được bán cho các Cựu Chiến Binh, những nông dân theo Việt Minh hồi hương và đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.

Giới điền chủ đều ủng hộ chính sách CCĐĐ. Trong thời chiến ruộng đất của họ bị xem như đã mất. Nay chính phủ khôi phục lại quyền sở hữu ruộng đất, họ được quyền thu địa tô và lãnh tiền bồi thường thiệt hại nếu bị truất hữu. Đại điền chủ vẫn còn được giữ lại 100 ha.

Các Chính Sách Khác

Nhằm giải quyết công ăn việc làm cho đồng bào miền Bắc di cư, giải quyết nạn thất nghiệp hậu chiến và đồng thời cũng để cô lập hoạt động du kích cộng sản, Tổng thống Ngô đình Diệm còn thực hiện chính sách xây dựng các khu dinh điền, khu trù mật và các ấp chiến lược.

Đến năm 1961, chính phủ đã thành lập 169 trung tâm tái định cư, với 25 Khu Trù Mật tập trung trên đồng bằng sông Cửu Long, tiếp nhận 50 ngàn gia đình, với 250 ngàn người tái định cư. Diện tích đất trồng được khai hoang hay được tái canh đạt 109.379 ha.
Tháng 4-1957, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thành lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho nông dân vay tiền một cách dễ dàng, nhẹ lãi và không đòi hỏi thế chấp hay người bảo lãnh.

Đến năm 1963, Quốc Gia Nông Tín Cuộc đã cho vay số tiền lên đến 4 tỷ 600 triệu đồng, 85% số tiền để giúp các tiểu điền chủ hay tá điền. Nhưng vì không có thế chấp và vì chiến tranh nên rất ít nông dân chịu trả nợ.

Chính phủ cũng đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẫn, giúp đỡ kỹ thuật cho nông dân. Nhờ đó năng suất lúa đã tăng từ 1,4 tấn/ha trong những năm 1950-1954, lên đến 2 tấn/ha năm 1960-1963.

Thành Quả và Giới Hạn

Nhờ các chính sách nói trên, việc sản xuất, xuất cảng và lợi tức nông nghiệp đã không ngừng gia tăng. Từ năm 1955 đến 1962, mức sản xuất gạo đã tăng từ 2,8 triệu tấn đến 5 triệu tấn, còn xuất cảng tăng từ 70 ngàn tấn lên đến 323 ngàn tấn.

Các điền chủ có ruộng đất truất hữu nhận các các khoản bồi thường lớn, họ đầu tư xây dựng các nhà máy, các phân xưởng tại nông thôn, hay trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nhờ đó không chỉ riêng nông thôn, mà toàn miền Nam sống trong cảnh thái bình.

Giới hạn của chính sách CCĐĐ là 74% tổng số diện tích ruộng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn thuộc 65.757 trung điền chủ (từ 5 đến 50 ha) và 6.316 đại điền chủ (trên 50 ha). Vẫn còn 795.480 gia đình nông dân chưa được làm chủ mảnh ruộng đang cày.

Sau đảo chánh 1-11-1963

Trong khoảng 1963-65, các cuộc đảo chánh liên tục xảy ra, các chính phủ thường xuyên thay đổi. Chính sách CCĐĐ không được tiếp tục. Chính sách dinh điền và khu trù mật cũng bị đình chỉ. Nhiều ấp chiến lược bị phá bỏ.

Đến năm 1965, với sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh, an ninh tại nông thôn dần dần được vãn hồi.

Ngày 3-9-1966, Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra. Ngày 1-4-1967, Hiến Pháp mới được ban hành. Ngày 3-9-1967 cuộc tổng tuyển cử tổng thống và Quốc hội diễn ra, tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống của nền Ðệ nhị cộng hòa ra quyết định tiếp tục áp dụng Chương Trình CCĐĐ.

Cải Cách Điền Địa Lần Thứ Hai

Sau tết Mậu Thân, số ruộng trước đây bị bỏ hoang nay được cấp phát cho nông dân.

Đến năm 1969, có thêm 261.874 gia đình được cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số người có ruộng lên 438,004 người.

Tháng 7-1969, Chương trình bình định và phát triển nông thôn được tiến hành. Chính phủ cho tổ chức lại cơ cấu hạ tầng nông thôn và đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đỡ kỹ thuật nông nghiệp cho dân.

Ngày 25-8-1969, Tổng Thống Thiệu đưa dự luật Người Cày Có Ruộng ra quốc hội thảo luận. Điểm chính của dự luật là giảm số ruộng đất tối đa điền chủ xuống còn 15 ha, trưng thu và cấp (không bồi hoàn) cho hơn 800.000 nông dân chưa có ruộng cày.
Nhiều dân biểu nghị sĩ thuộc tầng lớp đại điền chủ không muốn bị truất hữu ruộng đất nên đã tìm cách ngăn cản thông qua dự luật. Mãi đến ngày 6-3-1970 đạo luật mới được Thượng viện thông qua. Ngày 16-3-1970 được Hạ viện thông qua.
Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân.

Các ruộng đất không được trực canh bị truất hữu phát cho các tá điền đang canh tác. Mỗi tá điền được phát 3 ha ở Nam phần hay 1 ha ở Trung phần.

Điền chủ trực canh được giữ lại tối đa 15 ha. Đất truất hữu được trả 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu với 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh đất đó.

Trong vòng 3 năm, 1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770.105 mẫu. Trong thời chiến đa số ruộng đất bị ảnh hưởng, nên đa số các điền chủ bị truất hữu đều không bất mãn.

Để đền đáp chính phủ cho phổ biến rộng rãi các bích chương: “Người Cày có ruộng ghi ơn tinh thần hy sinh của điền chủ.” Nhìn chung ông Thiệu thu phục được nhân tâm của giới cựu điền chủ miền Nam.

Luật NCCR cũng quy định nông dân lãnh ruộng do Việt Cộng cấp cũng được nhận bằng khoán chính thức sở hữu số ruộng.
Cho đến ngày 28-2-1973, Chương trình CCRĐ coi như đã hoàn tất. Đã có 858.821 tá điền được hữu sản hóa 1.003.323 ha ruộng đất. Mọi nông dân miền Nam đều có ruộng cày.

Chương trình NCCR đã tạo ra một tầng lớp tiểu và trung điền chủ lên đến 1,3 triệu người. Chỉ còn chừng 10% là có từ 5-15 ha đất, với 10% diện tích trồng trọt và họ cũng phải tự chăm sóc đất đai. Đại điền chủ không còn và việc tá canh coi như đã chấm dứt.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, thêm cán bộ xây dựng nông thôn, khuyến khích nghiên cứu và áp dụng phương pháp canh tác mới với kỹ thuật mới thúc đẩy gia tăng năng suất.

Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn được thành lập. Với bằng khóan đất, nông dân được vay lãi nhẹ để đầu tư sản xuất.

Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp được đưa về nông thôn. Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh tác, sử dụng phân bón hóa học, cải tiến giống lúa, trồng lúa Thần Nông, tăng gia sản xuất gia súc lai giống… Cơ sở hạ tầng phát triển nông dân hăng say học hỏi và sản xuất.

Năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Năm 1974, sản lượng gạo sản xuất đã tăng đến 7,2 triệu tấn với viễn tượng xuất cảng. Nhờ đó đời sống của nông dân được cải thiện một cách rõ ràng.
Số điền chủ có ruộng bị truất hữu, cũng được chính phủ giúp đỡ sử dụng vốn kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, dịch vụ lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, dịch vụ chế biến thực phẩm nông sản, hướng đến việc xuất cảng bán thành phẩm nông nghiệp, giúp nền kỹ nghệ miền Nam khởi sắc đóng góp xây dựng nền kinh tế quốc gia.
Có an cư mới có lạc nghiệp.

Lịch sử đã chứng minh nông dân luôn là nền tảng trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh.

Tóm lược từ bài viết của tác giả: Nguyễn Quang Duy (Melbourne, Úc Đại Lợi 25/09/2014)

Tài liệu tham khảo: Lâm Thanh Liêm, Chánh sách Ruộng Đất ở Việt Nam 1954-1995, Đường Mới, 1996, Paris.

Các bài viết cùng chủ đề (NNQ sưu tầm).

    ❖ GS. Cao Văn Thân, cải cách ruộng đất và phát triển nông nghiệp, 1968-1975 (Phần 1: Người cầy có ruộng).‎‎ Những chính sách nông nghiệp dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã biến chuyển vùng nông thôn và góp phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế miền Nam Việt Nam trong những năm cuối của chiến tranh. Các chính sách này bao gồm cải cách điền địa, phát triển nông nghiệp, rỡ bỏ kiểm soát giá cả, và ổn định thị trường. Kết quả là miền Nam đã xoá bỏ tình trạng tá điền, giảm bất bình đẳng ở nông thôn bằng cách tạo ra một tầng lớp chủ đất nhỏ đông đảo, nhanh chóng mở rộng sản xuất theo hướng tự túc về thực phẩm, ổn định thị trường cung cấp và tiêu thụ thực phẩm. Đây là một cuộc cách mạng nông thôn thành công diễn ra giữa một cuộc chiến tranh tàn bạo, một cuộc cách mạng chưa được sử gia công nhận một cách đầy đủ. Thay vì đấu tranh giai cấp bằng bạo lực, cuộc cách mạng của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự kết hợp giữa các quyền lợi về kinh tế và kỹ thuật canh tác mới để thu hút sự tham gia và đem lại lợi ích cho đa số nông dân miền Nam… Giáo sư Cao Văn Thân @ https://usvietnam.uoregon.edu

    ❖ GS. Cao Văn Thân, cải cách ruộng đất và phát triển nông nghiệp, 1968-1975 (Phần 2: Cuộc cách mạng xanh).‎‎ Tôi tin rằng Tổng thống Thiệu trong thâm tâm là một nhà nông. Ngoài việc cải cách ruộng đất, ông ấy cũng ra lệnh cho tôi khởi động một chương trình phát triển nông nghiệp đầy tham vọng để đẩy nhanh nền kinh tế nông nghiệp và củng cố những thành quả của cải cách ruộng đất…

Trong số hơn ba chục đề mục của kế hoạch 5 năm đầu tiên, tôi đã đưa Chương trình Sản xuất Lúa Thần Nông Cấp Tốc ( LTNCT) lên làm trục chuẩn. Sản xuất lúa gạo là một phần mật thiết của văn hoá Việt Nam. Không những là thức ăn chủ yếu của chúng ta, lúa gạo còn nằm ở trung điểm văn hoá và lối sống của chúng ta nữa. Trong niên giám về phát triển kinh tế của Việt Nam chưa bao giờ có bất kỳ chương trình phát triển nông nghiệp nào có tầm vóc quy mô hơn, phức tạp hơn trong quá trình thực hiện, ảnh hưởng đáng kể hơn, và thành công hơn so với chương trình LTNCT… Giáo sư Cao Văn Thân @ https://usvietnam.uoregon.edu

    ❖ GS. Cao Văn Thân, cải cách ruộng đất và phát triển nông nghiệp 1968-1975 (Phần 3: Tự do hóa vật giá, ổn định thị trường) Sản xuất gạo chỉ là một nửa phần thử thách. Một nửa phần còn lại, cũng quan trọng cho sự thành công của chương trình, là tín dụng, thu mua, lưu trữ và phân phối. Gạo sẽ không chuyển từ nông dân sang người tiêu thụ ở đô thị với giá cạnh tranh trừ khi chúng ta có thể giải quyết thỏa đáng những vấn đề quan trọng này. Trách nhiệm tiếp thị gạo thuộc thẩm quyền của của Bộ Kinh tế, sau này được đổi tên thành Bộ Thương mại và Công nghiệp… Giáo sư Cao Văn Thân @ Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ.

Leave a comment