Về “Độc Cư, Thiền Định, Kham Nhẫn, Tri Túc” Trong Mùa “Cô-Vi 19”


☆ COVID-19 Update

Bản Đồ Cập Nhật Tình Hình COVID-19 Trên Thế Giới (Johns Hopkins University JHU)

Click đường link này: https://gisanddata.maps

COVID-19 Coronavirus Pandemic

Source: Worlddometers


Về “Độc Cư, Thiền Định, Kham Nhẫn, Tri Túc” Trong Mùa “Cô-Vi 19”


© BS Đỗ Hồng Ngọc
Source: © Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Lo
ng

NNQ sưu tầm & Post on May 08th, 2020

tinh-lang_tranh-son-dau_dinh-cuong

Người ngồi tịch lặng – Tranh sơn dầu trên giấy Đinh Cường

Thời buổi “Cô-Vi 19” hoành hành khắp thế giới này, thì với những người đã có “tuổi hơi cứng” như tụi mình nên thực hành các hạnh Độc Cư, Thiền Định, Kham Nhẫn, Tri Túc mà Phật đã dạy từ hơn hai ngàn sáu trăm năm trước để có một nếp sống An Lạc và Hạnh Phúc. Thực ra không chỉ với bọn mình mà cả những người bạn trẻ cũng nên học để có một cuốc sống an vui, mạnh khỏe, không mắc phải những thứ bệnh “thời đại” là những bệnh như S.A.D (Stress: căng thẳng; Anxiety: Lo âu, sợ hãi; Depression: Trầm cảm), hay “3 cao 1 thấp” (3 cao là Cao đường, Cao mỡ, Cao máu và 1 thấp là… Thấp khớp) cùng rất nhiều các thứ bệnh khác do hành vi lối sống gây ra…

Độc Cư

“ở một mình”, “sống một mình”. Lúc dịch bệnh tràn lan như vầy thì lời khuyên tốt nhất là nên “ở nhà một mình” (Home Alone!). Mọi người nên Stay home trong “Homestay” của mình. Bất đắc dĩ mới phải ra đường khi cần thiết, và phải luôn đeo khẩu trang để tránh lây bệnh cho người khác và cũng để nhắc nhở mình đang mùa có dịch. Độc cư nhiều khi dễ căng thẳng, buồn chán, dễ gây lộn, dễ “phá thành sầu” bằng chai alcool (không phải để sát khuẩn) mà để sinh sự cho sự sinh.

Phật giảng một bài rất hay trong kinh “Người biết sống một mình!” Đó là người sống với cái Tâm tĩnh lặng, trong sáng, không bị “trôi lăn” (cuốn) vào dĩ vãng hay tương lai bởi “dĩ vãng đã qua rồi/ tương lai thì chưa tới”. Họ an nhiên tự tại với “ở đây và bây giờ” (here and now).

Một người chui vào phòng kín, nhập thất, hoặc lên núi cao cất cái chòi nhỏ… để sống mười năm chưa chắc đã là “độc cư” bởi trong lòng còn mang mang: quân tử trả thù mười năm chưa muộn…?

Thiền Định

Một người bạn phương xa vừa gởi mình tấm hình này, rất dễ thương. Tự nó đã nói lên nhiều điều. Xin được chia sẻ:

corona-doc-cu-thien-dinh-img

“Nếu anh không thể đi ra ngoài được thì hãy đi… vào trong”. Nguồn Internet.

Dĩ nhiên đây là nói về thời “Cô-Vi 19” với lời khuyên phải “cách ly”, người cách ly người, nhà cách ly nhà, phố cách ly phố…

Chớ còn hồi xưa, thời Xuân Diệu:

Có một bận em ngồi xa anh quá,
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn.
Em xích gần thêm một chút: anh hờn.
Em ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa.

Còn Trịnh Công Sơn thì khéo hơn:

Xin em ngồi yên đấy
Tôi tìm cuộc tình cho…

Ngồi yên, đi vào trong (go inside)… dĩ nhiên không phải là Thiền định rồi.

Lục tổ Huệ Năng bảo:
Ngoài không dính mắc là Thiền
Trong không lay động là Định.

Vậy thì đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền cũng định. Đi ra ngoài đi vào trong gì cũng thiền cũng định.

Còn Trần Nhân Tông thì bảo: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”

Trước cảnh mà tâm vẫn an, vẫn tịnh, thì chẳng cần hỏi tới Thiền làm chi! Chẳng qua vì tâm ta như khỉ như vượn (tâm viên ý mã), dính mắc tùm lum nên mới vất vả lao đao bao điều.

Cho nên để có thể có tâm an tịnh, thiền là một cách thế trong rất nhiều cách thế. Tụng kinh niệm Phật mà đạt đến “nhất tâm bất loạn” thì cũng là Thiền. Tĩnh tâm cầu nguyện với lòng từ bi rộng mở thì cũng là thiền. Và tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, cũng là thiền, một cách căn cơ nhất. Chánh niệm (Mindfullness) dẫn đến chánh định (Samadhi), từ đó mà có Chánh kiến, chánh Tư duy… trong Bát chánh đạo vậy.

Ngày nay, y học và tâm lý trị liệu, phân tâm học, cũng nghiên cứu ứng dụng Thiền để chữa trị những thứ bệnh thời đại S.A.D, nghiện ngập, rối loạn chuyển hóa, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn hành vi… đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Dĩ nhiên, đó chỉ mới là phần ứng dụng của Thiền, chưa phải là thiền Phật giáo, được hướng dẫn kỹ trong Tứ niệm xứ (Satipatthana).

MBSR (Meditation-Based Stress Reduction) và MBCT (Meditation-Based Cognitive Therapy) là những ứng dụng thiền học tốt

Dù sao, thiền cũng là cách giúp mình được an nhiên, tự tại… ít nhiều trong tình hình đầy hoang mang căng thẳng lúc dịch bệnh đang hoành hành.

Thiền còn giúp ta “quay về nương tựa chính mình”, nhìn lại mình xem đã bao lâu rồi tất tả ngược xuôi, rượt đuổi với bao “tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, kiêu mạn…”

Cho nên “If you can’t go outside, go inside”, cũng là một nhắc nhở tốt phải không?

Khảm Nhẫn

Kham là chịu, nhẫn là nhịn. Tục ngữ ta có câu: “Một sự nhịn chín sự lành.”

Trong các yếu tố khiến “kham không nổi” thì “khẩu” (Lời nói) là yếu tố quan trọng nhất. Đã đành “ý dẫn các pháp”, nhưng ý chưa thể hiện thành hành vi. Khẩu mới ầm ĩ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! Cho nên Phật dạy con mình là La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác… Rồi dạy con phải học hạnh của Đất để “nhẫn”: ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn «như như bất động»…

Nhưng nhẫn đến như Phật đối với Đề Bà Đạt Đa thì quá khó! Đề Bà Đạt Đa là em chú bác của Phật, cũng tu hành đàng hoàng nhưng lòng tham quá lớn, muốn thay Phật lãnh đạo tăng đoàn, từng ném đá giết Phật, từng khiến voi giày Phật, còn xúi giục con vua giết vua, chiếm ngôi v.v…

Vậy mà Đề Bà Đạt Đa được Phật ca ngợi hết lời. Hãy nghe Phật kể «công đức» của Đề Bà Đạt Đa: «Do nhờ ông Thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa này làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ bi hỷ xả, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộng… và nhờ đó mà ta thành bực Chánh đẳng Chánh giác…». Nói khác đi, nhờ có sự “đối nghịch” như vậy mà Phật mới nhẫn nhục, tinh tấn, để trở thành vị Chánh đẳng Chánh giác. Đề Bà Đạt Đa xứng đáng là một Thiện tri thức, một vị Bồ Tát “nghịch” bên cạnh Phật đó chứ! Và ngày nay ta cũng cần những vị Bồ Tát “nghịch” như thế.

Nhưng “kham nhẫn” trong lời khuyên của Phật thì không chỉ là sự chịu đựng, “nhịn nhục” với cái đáng giận, đáng ghét mà còn phải “kham nhẫn” cả với những đường mật, mê say vì dễ dẫn ta tới tham ái, chấp thủ.

“Kham nhẫn” với giận với hờn còn dễ hơn kham nhẫn với nhớ, với thương, phải không?

Tri Túc

Tri túc là Biết đủ. Nhưng thế nào là đủ? Làm sao để biết đủ?

Lòng tham vốn không đáy. Lúc nào cũng muốn muốn muốn. Nào vạn tuế vạn vạn tuế, nào muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử…

Mà càng tham thì càng thấy thiếu. Người đẹp muốn đẹp hơn. Người giàu muốn giàu nữa. Người quyền chức thì muốn càng cao thêm mãi.

Nguyễn Công Trứ bảo: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc? Biết đủ thì đủ! Đợi đủ bao giờ mới đủ? Bao giờ nghĩa là… còn lâu!

Ưng Bình Thúc Giạ Thị thì bảo trên con đường hoạn lộ: Biết đủ dầu không chi cũng đủ/ Nên lui đã có dịp thì lui…

Cho nên Tri túc luôn đi đôi với Thiểu dục. Thiểu dục Tri túc. Bởi người it ham muốn thì may ra mới thấy là đã đủ, nghĩa là thôi, đủ rồi đó!

Có một cách “tri túc” hay là đừng bao giờ so sánh. Đã có so sánh thì có hơn thua. Hơn cũng khổ mà thua cũng khổ. Ngang bằng càng… khổ!

Thiểu dục Tri túc không có nghĩa ngăn cản sự tiến bộ của xã hội, của con người. Dĩ nhiên là tiến bộ theo hướng thiện, không làm khổ mình, khổ người, mà chỉ là để ngăn ngừa lòng tham không đáy, “ích kỷ hại nhân”, để có được một đời sống an lạc, hạnh phúc.

Nhưng, nói thì dễ, mà làm thì không dễ chút nào bạn ơi!

© Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc ‖ 2/4/2020
© Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Long


Xin giới thiệu các trang webs có đăng bài viết hữu ích này:

Chết Vì Rượu

© Huy Phương
Source: © Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Long

NNQ sưu tầm & post on May 08, 2020

ban-ruou

Hình minh họa, internet

Tôi không biết uống rượu nhưng khi ai có lòng đem cho mình một chai rượu quý, tôi vẫn dành để biếu lại cho một người bạn thân uống được rượu, mà uống một cách thông minh.

Người xưa phong lưu thì có cầm, kỳ, thi, tửu. Nhà thơ Tú Xương cũng không qua cảnh “một trà, một rượu, một đàn bà.” Rượu luôn luôn đi với thơ, dễ chừng không có rượu, cõi đời không có thơ, (bầu rượu, túi thơ.) Có bạn bè thì phải có rượu “chén chú, chén anh.” (Rượu ngon phải có bạn hiền!)

Một trong những cái “chẳng cũng sướng sao” của Kim Thánh Thán là gặp lúc bạn đến nhà mà đủ tiền mua rượu đãi bạn: “…Người bạn xa mười năm, thình lình đến vào chiều hôm. Mở cửa chào xong, chẳng kịp hỏi đi thuyền hay đi bộ, cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường… Hàn huyên qua loa, liền chạy mau vào nhà trong, sẽ hỏi vợ: “Mình có được như bà vợ Tô Đông Pha, sẵn có rượu để dành không?” Vợ cười, rút cành trâm vàng đưa cho. Tính ra có thể đãi khách được ba ngày… Chẳng cũng sướng sao!”

Trong tình yêu cũng thế: “Em ơi! Lửa tắt, bình khô rượu, Đời vắng em rồi, say với ai?” (Vũ Hoàng Chương).

Trong lễ cưới hỏi của người Việt thì có khay rượu đi đầu, “giúp em một thúng xôi vò, hai con lợn béo, một vò rượu tăm!” Đôi tân lang và tân giai nhân cùng nhau uống rượu làm lễ giao bôi, họ hàng thì nâng ly rượu mừng cho đôi trẻ. Khi vui uống ly rượu mừng, lúc buồn mượn ly rượu giải sầu. Có ly rượu mừng và cũng có ly rượu phạt. Trong Tam Quốc Chí thì “Quan Vũ lên ngựa ra chém Hoa Hùng, chạy về chén rượu uống dở vẫn còn nóng!”

Người Trung Hoa, người Việt thì đám cưới cũng rượu, đám tang cũng rượu. Không có rượu, coi như lễ nghĩa không thành (Vô tửu bất thành lễ). Trong nhiều nghi lễ khác cũng cần có rượu, đặc biệt là trong các nghi lễ cưới hỏi. Trong phong tục cưới hỏi của người Việt, khay trầu rượu luôn được đi hàng đầu. Như vậy thì chúng ta cũng có thể nói: rượu là một nét văn hóa của người Việt.

Tai hại của rượu thì ai cũng đã thấy. Ngay ở Hoa Kỳ, tệ nạn nghiện rượu từng là thảm kịch trong gia đình của Tổng Thống Donald Trump. Người anh của ông là Fred Jr. đã qua đời vào năm 1981, vì nghiện rượu. Gia đình Ông Trump không ai uống rượu, năm ngoái (2018), ông đã tặng $100,000 trích từ tiền lương của ông trong quý thứ ba của năm cho cơ quan “National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism.”

Và ngày nay, thế giới đang báo động vì tai nạn uống rượu lái xe gây chết người.

Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO nói rượu là thủ phạm đứng hạng 3 gây ra số người chết và thương tật nhiều nhất trên thế giới, ước chừng có 2.5 triệu người chết mỗi năm.

Ở Hoa Kỳ, nghiên cứu cũng cho thấy rằng 5 thành phố tại California, như Vista, Hemet, Delano, Murrieta, và Pittsburg, việc tử vong do DUI (Driving under the influence – Lái xe dưới sự ảnh hưởng của rượu hay ma túy), gia tăng từ 140 tới 700% từ năm 2012 tới 2017. Trong thời gian 5 năm, hơn 5,500 người chết từ tai nạn do say rượu lái xe tại California.

Nhưng ở Mỹ có luật lệ nghiêm minh, cơ quan cảnh sát cũng làm việc đứng đắn, dân trí cao nên rượu không phải chuyện “quốc nạn” như ở đất nước Việt Nam.

Ở Việt Nam, chỉ tính trong một năm 2016, ước tính có 79,000 người chết vì uống rượu bia, và hàng trăm ngàn người khác phải vào bệnh viện vì các bệnh liên quan đến rượu như gan, tim mạch, ung thư, đột quỵ.

Việt Nam được xem là một “cường quốc” về rượu. WHO cho biết người Việt tiêu thụ trung bình một người trên 15 tuổi tiêu thụ 8.3 lít cồn nguyên chất trong năm 2016, trong khi các quốc gia trong khu vực sử dụng ít hơn nhiều như ở Mông Cổ là 7.4 lít, Trung Quốc là 7.2 lít, Campuchia là 6.7 lít, Philippine là 6.6 lít và Singapore chỉ có 2 lít.

Đàn ông Việt Nam sử dụng rượu bia càng ngày càng tăng, cứ 100 người đàn ông thì có 77% người uống rượu bia, gia tăng từ năm 2015 so với năm 2010 là 15%.

Rượu “góp mặt” trong 70% số vụ phạm pháp hình sự ở nhóm dưới 30 tuổi (giết người, hiếp dâm…)

Mỗi năm có, 4,800 người tử vong do tai nạn giao thông vì say rượu. Dịp Tết Kỷ Hợi vừa qua có 60% trong số 500 ca cấp cứu nhập viện liên quan đến rượu bia. Ước tính thiệt hại kinh tế do rượu bia, mỗi năm Việt Nam thiệt hại khoảng 65,000 tỉ đồng (khoảng $2.8 tỷ).

Bây giờ rượu không còn “nhấp” hay “nhâm nhi” mà phải “nhậu,” “nốc,” “dzô!” Uống rượu ngày nay không còn là cái thú tao nhã, phong lưu nữa mà đã trở thành một tệ nạn, lan tràn khắp đất nước. Đám cưới phải nhậu, đám ma cũng nhậu, mừng nhà mới, con tốt nghiệp cũng nhậu, lên lương, lên chức cũng nhậu, thảo luận làm ăn, ký khế ước cũng nhậu, mừng vô đảng viên cũng nhậu. Ngày thường nhậu, cuối tuần nhậu nhiều hơn. Rượu vào lời ra, nôn mửa, la lối, đánh giết nhau, vật vã trên vỉa hè, chẳng còn một chút gì gọi là nhân cách.

Và theo quan niệm từ xưa, đàn ông, nam nhi thì phải biết uống rượu. “Nam vô tửu, như kỳ vô phong.” (Đàn ông không rượu, như lá cờ không có gió.) Nhậu mới là đàn ông, nhậu mới là chịu chơi. Xã hội ngày nay, thằng đàn ông không rượu là đồ hèn. (Cởi quần mặc váy đi anh, Về cho con bú, cơm canh lau nhà… ) Buổi chiều tan sở, ra thẳng quán nhậu. Không nhậu với thủ trưởng, đồng nghiệp thì đừng hòng có phe cánh hay sống còn.

Chuyện xưa kể, ngày xưa có một chàng trai bị quỷ đòi mạng. Anh chàng van xin tha tội. Quỉ ra điều kiện, phải làm ba việc, uống rượu, đốt nhà hay giết mẹ! Đốt nhà, giết mẹ thì không nỡ, chàng trai chọn điều kiện uống rượu. Nhưng khi rượu vào mất trí khôn, chàng trai đốt nhà rồi giết luôn mẹ. Ngày nay cứ mở Google ra, đánh mấy chữ “Say rượu, giết Mẹ,” sẽ thấy hiện lên hàng trăm trường hợp đi nhậu say rượu về, con trai cầm dao giết mẹ, hay cha giết cả nhà, bạn bè đâm nhau lòi ruột.

Trong chuyện Tam Quốc, có chuyện Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, ba người tâm đầu ý hợp, cùng nhau uống mấy vò rượu mà kết bái huynh đệ tại vườn đào. Ngày nay ở Việt Nam có chuyện hai anh em kết nghĩa, sau bữa nhậu say túy lúy, ông anh nham nhở sờ vào vùng kín của ông em, khiến người này tức giận vác dao chém chết ông anh kết nghĩa.

Trong văn chương thấy người xưa uống rượu có phong cách, chừng mực, uống rượu như là một thứ nghệ thuật, đắp bồi cho giá trị cuộc sống. Ngày nay, Việt Nam là một nước nghèo, lại mang tiếng là đứng đầu vì rượu chè, tai nạn giao thông, ung thư, án mạng, hiếp dâm, phá thai… con người mất nhân cách, lâm cảnh tù đày…

Nói đến chuyện say rượu, phải nói đến nhân vật Chí Phèo. Nhà văn Nam Cao đã kết án đanh thép cái xã hội phong kiến, thực dân tàn bạo, tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, vùi dập cả đạo đức, nhân tính.

Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp,” viết bằng tiếng Pháp và được in năm 1925-1926 trên một tờ báo của Quốc Tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc cho rằng Pháp đầu độc dân Việt Nam, bằng cách bắt họ uống rượu theo tiêu chuẩn đầu người (?) Nhưng cứ nhìn con số người chết vì rượu, và những tệ nạn xã hội do rượu gây ra dưới thế hệ Hồ Chí Minh, cái thời mà Tổng Bí Thư đã ca tụng “đất nước ta chưa bao giờ có được như ngày hôm nay,” thì cái chế độ này còn độc ác và gây tội lỗi cho dân tộc Việt Nam gấp trăm lần thời nô lệ!

Quốc Hội CSVN hiện nay đang dùng dằng chưa muốn đem việc hạn chế rượu thành luật, vì rượu là “nền văn hóa thế giới,” thậm chí dẫn cả thơ của Hồ Chí Minh, cho rằng “chỉ khi bị tước đoạt tự do mới không được uống rượu!” (Trong tù không rượu cũng không hoa)!

Để giữ gìn sức khỏe, Lãn Ông đã khuyên: “bán dạ tam bôi tửu, bình minh nhất trản trà…” (Nửa đêm ba chén rượu, sáng sớm một tuần trà, mỗi ngày cứ như thế, thầy thuốc không đến nhà). Chuyện này không chắc lắm, nhưng “nốc” rượu như Việt Nam ngày nay, bác sĩ cũng chạy xa, xe cứu thương đến nhà, và cuối cùng, đạo tì khiêng xác ra…

© Huy Phương ‖ Apr 13, 2020
Thân mời đọc thêm @ http://www.tongphuochiep.com
& https://www.nguoi-viet.com

Nhà Văn Huy Phương

Tên thật của Huy Phương là Lê Nghiêm Kính. Ông sinh năm 1937 tại Huế, cựu học sinh trung học Khải Ðịnh và trường Quốc Gia Sư Phạm Saigon.

Nhà văn Huy-Phương

Trước khi động viên vào khoá 16 Sĩ Quan TB Thủ Ðức, ông dạy học tại trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị và phụ trách thư ký toà soạn của tờ nguyệt san chuyên đề giáo dục là Sổ Tay Sư Phạm.

Trong quân đội ông được gởi đi học khoá Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí tại Hoa Kỳ. Ông phục vụ tại Nha Chiến Tranh Tâm Lý, làm biên tập viên báo chí và phát thanh quân đội. Tại đài phát thanh quân đội, Huy Phương biên tập cho chương trình “Dạ Lan”, cũng như cùng với Mai Trung Tĩnh và Nhật Trường phụ trách chương trình mang chủ đề “Văn nghệ Chiến Sĩ”. Tại phòng báo chí Quân Ðội, ông làm nhiệm vụ phóng viên và lần lượt phụ trách hai tờ báo của Quân Đội là tạp chí Tiền Phong và Nguyệt San Chiến Sĩ Cộng Hoà, ông cũng là ký giả của các tờ Tia Sáng, Tiền Tuyến và Diều Hâu trước tháng 4-1975.

Những năm cuối cùng trong quân đội, ông là Trưởng Phòng Chính Huấn và Tâm Lý Chiến tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.

Sau tháng 5/1975, Huy Phương bị tập trung trong các trại tù của CS hai miền Nam Bắc trong thời gian 7 năm và đến Hoa Kỳ cuối năm 1990. Ông đã làm nhiều nghề rất nặng nhọc như Courier (đưa thư) cho nhà băng, bán xăng, lau chùi building, assembly và cuối cùng là chuyên viên của hãng Ritz Camera I hour Photo tại Virginia và Nam California.

Tương đối, Huy Phương là người viết rất sớm, năm 15 tuổi, tức là năm 1952, ông đã có thơ và tuỳ bút đăng trên Tuần Báo Ðời Mới tại Saigon do Ông Trần Văn Ân chủ trương. Ở trong nước, Huy Phương đã có hai tác phẩm: Mắt Ðêm Dài (thơ) năm 1960 và Mây Trắng Ðồn Xa (truyện) năm 1966. Ðến Mỹ, ông đã cộng tác với nhiều tờ báo ở Nam Cali và đã có thời gian làm Phụ Tá Chủ Bút cho tuần báo Saigon Nhỏ. Huy Phương có sở trường trong loại Phiếm và Tạp Ghi.

Hiện nay, Huy Phương đang cộng tác với đài SBTN trong chương trinh “Huynh Ðệ Chi Binh”, đài phát thanh VNR (Nam Cali) trong chương trình “Quê Nhà Quê Người”, nhật báo Người Việt tại Nam Cali, Việt Nam Nhật Báo tại Bắc Cali, Thời Báo tại Canada và Saigon Times, tại Úc Châu. Vì thể loại tạp ghi và những vấn đề ông đặt ra gần gũi và thiết thực với tâm trạng và những diều trăn trở của những người Việt tỵ nạn xa quê hương, nên bài vở của ông được đăng lại, phổ biến trên rất nhiều tờ báo và các các diễn đàn tại hải ngoại.

Những tác phẩm đã xuất bản tại Hoa Kỳ là:
— Hạnh Phúc Xót Xa, 2010
— Những Người Muôn Năm Cũ, 2010
— Nhìn xuống Cuộc Đời, 2009
— Ấm Lạnh Quê Người, 2007
— Ði Lấy Chồng Xa, 2006
— Nước Mỹ Lạnh Lùng, 2003.

Source: © http://www.cattien.us/

Leave a comment